black friday sale

Big christmas sale

Premium Access 35% OFF

Home Page
cover of Cơn bão đồng tiền mất giá ở các nước châu Á, liệu một cuộc khủng hoảng tài chính khác sắp tới?
Cơn bão đồng tiền mất giá ở các nước châu Á, liệu một cuộc khủng hoảng tài chính khác sắp tới?

Cơn bão đồng tiền mất giá ở các nước châu Á, liệu một cuộc khủng hoảng tài chính khác sắp tới?

nghiencuuchienluocnghiencuuchienluoc

0 followers

00:00-13:32

Từ tháng 4 đến nay, đồng tiền các nước châu Á đồng loạt mất giá. Nguyên nhân gây ra điều này có nhiều phương diện, trong đó quan trọng nhất là chính sách đồng USD mạnh của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED). Hiện nay, nếu đồng đô la Mỹ tiếp tục duy trì sức mạnh, không thể loại trừ khả năng xảy ra khủng hoảng tài chính ở một số quốc gia. Nhưng những sự kiện tương tự như cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997 khó có thể lặp lại. Trong ngắn hạn, FED vẫn duy trì lãi suất đồng USD ở mức cao nên áp lực

Audio hosting, extended storage and much more

AI Mastering

Transcription

Since April, Asian currencies have been depreciating collectively. The Japanese yen, South Korean won, Indian rupee, Indonesian rupiah, Vietnamese dong, and Philippine peso have all experienced significant depreciation. Exchange rates against the US dollar have reached record lows, causing economic and financial shocks to these countries. The strong value of the US dollar, weak economic foundations, and unexpected domestic factors contribute to the currency depreciation. However, the Asian financial crisis of 1997 is unlikely to repeat itself due to improved financial resilience and reduced foreign debt. Kể từ tháng 4, đồng tiền các nước châu Á xuất hiện làng sóng mất giá tập thể. Đồng yên Nhật, đồng quân Hàn Quốc, đồng ruby Ấn Độ, đồng ruby Indonesia, tiền đồng Việt Nam, đồng peso Philippines, đều mất giá mạnh. Tỷ giá hối đoái của rất nhiều nước so với đồng đô la Mỹ đạt mức thấp kỷ lục trong vài tháng, thậm chí là lịch sử. Vào ngày 29 tháng 4, tỷ giá đồng yên Nhật Bản giảm xuống dưới 160 yên USD, trả mức thấp mới kể từ năm 1990. Ngày 16 tháng 4, tỷ giá quân Hàn Quốc từng vượt mốc 1.400 quân đổi một đô la Mỹ, thiết lập mức thấp mới kể từ năm 2022. Ngày 19 tháng 4, tỷ giá đồng ruby của Ấn Độ giảm xuống 83,558 năm, trả mức thấp mới kể từ tháng 11 năm ngoái. Ngày 16 tháng 4, tỷ giá ruby của Indonesia đã giảm xuống dưới mức 16.000 ruby đô la Mỹ, trả mức thấp mới trong 4 năm qua và trở thành một trong những đồng tiền có mức giảm lớn nhất trong số các đồng tiền châu Á. Ngày 17 tháng 4, tỷ giá peso của Philippines đã giảm xuống dưới mức 57 peso đổi một đô la Mỹ, thiết lập mức thấp mới kể từ cuối năm 2022. Ngày 19 tháng 4, tỷ giá đồng Việt Nam giảm xuống 25.463, đạt mức thấp kỷ lục. Mặc dù sự mức giá của đồng nhân dân tệ không đáng kể nhưng tỷ giá nhân dân tệ ở nước ngoài vẫn trả mức thấp mới kể từ tháng 11 năm ngoái. Vào ngày 16 tháng 4, đồng đô la Mỹ so với đồng nhân dân tệ ở nước ngoài từng đạt mức cao nhất 7,2831. Sự mức giá mạnh đồng tiền của một quốc gia có thể dễ dàng gây ra những cú sốc kinh tế và tài chính cho quốc gia đó. Mặc dù sự mức giá của đồng nội tệ có thể làm cho giá xuất khẩu của một quốc gia giảm, do đó cạnh tranh hơn, nhưng chi phí nhập khẩu hàng hóa từ nước ngoài cũng sẽ tăng lên. Điều này sẽ làm giảm lợi ngựn của doanh nghiệp, đặc biệt đối với những doanh nghiệp cần nhập khẩu số lượng lớn từ nước ngoài. Hơn nữa, do tỷ giá hối đoái giảm, làm cho giá cả hàng nhập khẩu tăng tương ứng, gia tăng áp lực làm phát trong nước. Trước áp lực mức giá tiền tệ, hầu hết các nước châu Á đã có động thái đối phó. Ngày 19 tháng 4, các bộ trưởng tài chính Hàn Quốc và Nhật Bản cùng cho biết họ lo ngại sâu sắc về sự mức giá mạnh gần đây của đồng yên nhập và đồng quân Hàn Quốc, sẵn sàng thực hiện các biện pháp nhằm ngăn chặn biến động quá mức của tỷ giá hối đoái. Ngày 24 tháng 4, Ngân hàng Indonesia tuyên bố tăng lãi xuất 25 điểm cơ bản, ngân lãi xuất cơ bản lên 6,25%. Thống đốc Ngân hàng Trung ương Philippines cho biết ông có khả năng sẽ can thiệp vào thị trường ngoại hối trong bối cảnh đồng peso của Philippines biến động mạnh. Cơ quan quản lý tiền tệ Ấn Độ cho biết họ sẽ dựa vào dự trữ ngoại hối của mình để can thiệp vào thị trường tiền tệ khi cần thiết nhằm ổn định tỷ giá đồng ruby. Vì sao đồng tiền các nước châu Á mất giá mạnh? Có nhiều nguyên nhân khiến đồng tiền các nước châu Á mất giá mạnh, trong đó có chính sách đồng đô la Mỹ mạnh của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ. Ngoài ra do nền tảng kinh tế yếu ớt của các nước châu Á cùng một số yếu tố bất ngờ trong nước. 5 năm, đồng tiền của các nước châu Á lần này mất giá mạnh có liên quan trực tiếp đến đồng đô la Mỹ mạnh và sự hại nhiệt kỳ vọng của thị trường về việc giảm lãi xuất của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ. Sau khi dịch COVID-19 bùng phát, để ứng phó với suy thoái kinh tế, Fed đã áp dụng chính sách nới lỏng định lượng quy mô từ năm 2020 đến 2021, khiến tỷ lệ lạm phát ở Mỹ vẫn ở mức cao. Để kiềm chế lạm phát, Cục Dự trữ Liên bang đã tăng lãi xuất 11 lần liên tiếp kể từ tháng 3 năm 2022, duy trì lãi xuất đô la Mỹ ở mức từ 5,25% đến 5,50%. Do lãi xuất cao của đồng đô la Mỹ, một lượng tiền lớn từ các nước châu Á đã chảy vào Mỹ, dẫn đến sự mất giá đồng tiền quốc gia của họ. Thị trường nhìn chung kỳ vọng rằng Fed sẽ không duy trì lãi xuất trên 5% và có nhiều kỳ vọng về việc cắt giảm lãi xuất của Fed trong năm nay. Nhưng dựa trên dữ liệu kinh tế gần đây của Mỹ và tuyên bố của Cục Dự trữ Liên bang, kỳ vọng của thị trường về việc cắt giảm lãi xuất của Fed đã giảm dần. Theo số liệu do Mỹ công bố vào giữa tháng 4, doanh số bán lẻ tại Mỹ trong tháng 3 tăng 0,7% so với tháng trước, chỉ số giá tiêu dùng, CPI, tăng 3,5% so với cùng kỳ năm trước. Việc làm trong ngành đông nghiệp tăng 303.000, tất cả đều vượt qua kỳ vọng của thị trường. Hiệu suất mạnh mẽ của nền kinh tế Mỹ đi kèm với lạm phát cao, khiến trọng tâm chính sách của Fed vẫn là kiềm chế lạm phát. Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Mỹ bao ồ thậm chí còn ám chỉ, nếu lạm phát năm nay khó kiểm soát được, không đại trừ việc tăng lãi xuất một lần nữa. Một số tổ chức dự đoán Cục Dự trữ Liên bang Mỹ có thể tiếp tục tăng lãi xuất lên 8%. Sự sụt giảm kỳ vọng các giảm lãi xuất của đồng đô la Mỹ, kết hợp với sự gia tăng đáng trẻ rủi ro địa chính vị, đã nâng cao vị thế của đồng đô la Mỹ như một loại tiền tệ đầu tư và trú ẩn an toàn, khiến chỉ số đô la Mỹ tăng bọt. Ngày 16 tháng 4, chỉ số đô la Mỹ đã tăng lên 106,5, mức cao nhất trong 5 tháng. Ngoài yếu tố đồng đô la Mỹ, một số vấn đề tồn tại trong nền kinh tế các nước châu Á cũng là nguyên nhân quan trọng khiến đồng tiền mất giá trong đợt này. Thứ nhất, nợ nước ngoài của các nước châu Á tương đối lớn, hơn lửa thiếu dự trữ ngoại hối để đủ can thiệp vào thị trường hối đoái. Cộng đồng quốc tế thiếu niềm tin vào khả năng duy trì sự ổn định đồng tiền của một số nước châu Á. Điều này cung cấp cơ hội cho các nước có vốn quốc tế có thể lấy mất tiền của các nước này. Thứ hai, các nước châu Á chủ yếu là các nền kinh tế mới nổi và hầu hết đều có dòng vốn tự do hoàn toàn. Điều này cũng khiến đồng tiền của họ dễ bị tổn thương trước sự biến động của đồng đô la Mỹ. Thứ ba, mô hình phát triển kinh tế của các nước châu Á và vị trí của họ trong phân công thương mại quốc tế khiến họ dễ bị tổn thương hơn với nền kinh tế toàn cầu. Nền kinh tế của các nước châu Á phụ thuộc rất lớn vào xuất khẩu, nền tảng kinh tế duy trì ổn định tiền tệ trong nước rất yếu ớt. Ví dụ, tỉ trọng kim nạch xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ của Việt Nam chiếm hơn 90% tổng sản phẩm quốc nội, GDP, tỉ trọng xuất khẩu của Hàn Quốc cũng chiếm hơn 40% GDP. Điều này làm cho nền kinh tế của Việt Nam cũng như các nước khác trong khu vực bị ảnh hưởng lớn bởi sự biến động của nền kinh tế toàn cầu. Hơn nữa, các ngành công nghiệp xuất khẩu của các quốc gia thị trường mới nổi châu Á chủ yếu là các ngành sản xuất giá trị thấp, nằm ở cối chuỗi công nghiệp trong phân công lao động quốc tế, khả năng dựa vào xuất khẩu để thua ngoại hối nhằm ổn định tỷ giá còn hạn chế. Những yếu tố này đều dẫn đến sự biến động lớn tỷ giá hối đoái của các quốc gia châu Á. Ngoài ra, một số thay đổi trong chính sách kinh tế hoặc tình hình nội bộ của các quốc gia châu Á cũng có liên quan nhất định đến đợt giảm giá tiền tệ lần này. Đồng yên giảm giá mạnh một phần là do ngân hàng trung ương Nhật Bản duy trì lãi xuất ở mức gần bằng không, làm cho sự chênh lệch lãi xuất giữa đồng yên và đô la Mỹ lên tới 8%. Mặt khác, do Nhật Bản có thâm hụt thương mại với nước ngoài, làm giảm nhu cầu đồng yên Nhật trên thị trường. Hơn nữa, sự suy thoái của thị trường trong nước cũng làm cho các doanh nghiệp Nhật Bản có xu hướng giữ lại lợi ngưỡng từ đầu tư ở nước ngoài. Đồng Việt Nam, Việt Nam đồng, giảm giá mạnh một phần là do các vấn đề sâu xa trong nước. Những vụ lừa đảo tài chính xảy ra ở Việt Nam trong thời gian gần đây đã khiến ngân hàng thương mại của phần Sài Gòn, SCB, phải chịu thiệt hại rất lớn. Để ngăn chặn sự sập đổ hệ thống của ngành ngân hàng, chính phủ Việt Nam đã bơm khoảng 24 tỷ đô la Mỹ vào SCB dưới dạng khoản vai đặc biệt. Số tiền này tương đương 5,6% GDP và một phần bốn dự trữ ngoài hối. Biện pháp này đã dẫn đến chi tiêu tài chính của Việt Nam tăng mạnh, sự ổn định tài chính đang đối mặt với thách thức nghiêm trọng. So với các đồng tiền khác, sự mất giá của đồng nhân dân tệ không đáng kể và nằm trong tầm kiểm soát. Nguyên nhân khiến đồng nhân dân tệ chịu ảnh hưởng tương đối nhỏ có liên quan chặt chẽ đến việc Trung Quốc sở hữu lượng dự trữ ngoài hối lớn và nền kinh tế Trung Quốc đang phục hồi tốt. Ngoài ra, việc kiểm soát ngoài hối của Trung Quốc cũng hạn chế sự di chuyển quy mô lớn của vốn quốc tế qua biên giới, đóng vai trò như một tường lửa tài chính. Khủng hẳn tài chính châu Á 1997 sẽ không lặp lại. Liệu làn sóng đồng tiền mất giá của các quốc gia châu Á có thể sẽ dẫn đến một cuộc khủng hẳn tài chính lửa hay không? Hiện tại, nếu đồng đô la Mỹ tiếp tục duy trì sức mạnh, không đoại trừ khả năng xảy ra khủng hẳn tài chính ở một số quốc gia. Nhưng sự kiện tương tự như cuộc khủng hẳn tài chính châu Á năm 1997 khả năng cao sẽ không tái diễn. Vào thập niên 90 của thế kỷ trước, để phát triển kinh tế, phần lớn các quốc gia thị trường mới nổi ở châu Á đã phát triển mạnh mẽ nền kinh tế theo định hướng xuất khẩu, do đó nợ nước ngoài rất lớn, đặc biệt là nợ đô la Mỹ. Hơn nửa do các quốc gia này nới lỏng các quy định về kiểm soát tài chính và ngoài hối, dẫn đến hệ thống tài chính trở nên mong manh, khó có thể chống lại những rủi ro do dòng vốn quy mô lớn gây ra. Năm 1997, bắt đầu từ sự mất giá của đồng bạc ở Thái Lan, một cuộc khủng hẳn tài chính đã nhanh chóng lan rộng khắp châu Á. Để trả nợ nước ngoài và duy trì ổn định tỷ giá, phần lớn các quốc gia châu Á đã cạn kiệp dự trữ ngoài hối trong một thời gian ngắn, và đồng tiền của họ bắt đầu giảm giá mạnh. Điều này dẫn đến suy thoái kinh tế và bất ổn chính trị. Hiện nay, tình hình trong nước và quốc tế mà các quốc gia châu Á đang đối mặt đã có nhiều thay đổi. Về tình hình trong nước, phần lớn các quốc gia châu Á đã giảm nợ nước ngoài, tăng mạnh dự trữ ngoài hối, nâng cao khả năng chống chịu rủi ro. Hơn nữa, sau khủng hẳn tài chính, vốn đầu tư nước ngoài vào các nước châu Á đã tăng mạnh trong lĩnh vực công nghiệp. Do đó độ nhạy cảm của vốn đối với biến động lãi xuất tương đối nhỏ, rủi ro dòng vốn chạy ra quy mô lớn cũng tương đối thấp. Ngoài ra, phần lớn các quốc gia châu Á đã thay đổi cơ chế hình thành tỷ giá, từ bỏ tỷ giá cố định và áp dụng tỷ giá thả nổi. Điều đó cũng làm cho cơ chế tỷ giá linh hoạt hơn, có thể giảm bớt tác động của việc mất giá tiền tệ một cách hiệu quả. Về tình hình quốc tế, sau khủng hẳn tài chính, các cơ chế phối hợp kinh tế vĩ mô đã được thiết lập ở châu Á và trên phạm vi toàn cầu. Cơ chế phối hợp tiền tệ toàn cầu cũng trở nên hoàn thiện hơn, giảm khả năng xảy ra khủng hoảng tài chính quy mô lớn. Tuy nhiên, nếu đồng đô la Mỹ tiếp tục duy trì mạnh, một số quốc gia có nợ nước ngoài quá cao hoặc cơ chế tỷ giá thiếu linh hoạt vẫn có thể bị Mỹ thu hoạch một lần nữa và bùng nổ khủng hoảng. Xu hướng tương lai gắn liền với chính sách tiền tệ của Phép. Trong ngắn hạn, do Cục Dự trữ Liên bang Mỹ vẫn duy trì lẻ xuất đô la Mỹ ở mức cao, áp lực giảm giá đối với các lồng tiền châu Á sẽ không được lại bỏ trong ngắn hạn. Một số cơ quan quản lý tiền tệ của các quốc gia mặc dù đã áp dụng các biện pháp cũng như can thiệp vào thị trường ngoại hối một cách thích hợp để ngăn chặn sự biến động lớn của tỷ giá, nhưng những biện pháp này đều gặp phải một số hạn chế nhất định và hiệu quả còn nghi ngờ. Các quốc gia thường rơi vào tình thế tiến thoái lưỡng năng khi sử dụng chúng. Việc phát biểu của Ngân hàng Trung ương để can thiệp bằng lời nói vào thị trường ngoại hối tuy có chi phí thấp, nhưng hiệu quả phụ thuộc vào mức độ tin tưởng của thị trường đối với những phát biểu của Ngân hàng Trung ương. Từ tháng 4 trở lại đây, Ngân hàng Trung ương Nhật Bản đã nhiều lần ngủ ý sẽ can thiệp vào thị trường ngoại hối, nhưng sự chậm trễ trong hành động thực tế để dẫn đến hiềm tin của thị trường vào Ngân hàng Trung ương Nhật Bản giảm xuất, tăng khả năng các nhà đầu tư đầu cơ bán khốn đồng yên. Nếu sử dụng dự trữ ngoại hối để can thiệp vào thị trường nhằm ổn định tỷ giá, không những chiêu tốn một lượng lớn dự trữ ngoại hối mà còn chỉ giải quyết được phần ngòn, không trị được phần gốc. Trường hợp của Nhật Bản đặc biệt hơn, mặc dù Nhật Bản có gần 1,4 nghìn tỷ đô la Mỹ dự trữ ngoại hối, nhưng gần 1,2 nghìn tỷ đô la Mỹ trong số đó đã được dùng để mua trái phiếu Mỹ. Do các yếu tố liên quan đến quan hệ chính trị Nhật-Mỹ, ngay cả khi đồng yên giảm giá mạnh, Nhật Bản cũng khó có khả năng bán trái phiếu Mỹ để ổn định tỷ giá. Tăng lãi xuất cũng là một biện pháp can thiệp vào thị trường ngoại hối. Mặc dù tác dụng của việc tăng lãi xuất rất mạnh, nhưng nó dễ gây ảnh hưởng tiêu cực lớn đến sự phát triển kinh tế trong nước. Đối với Nhật Bản, lý do họ không dám tăng lãi xuất cũng một phần do quy mô nợ công là yếu tố hạn chế quan trọng. Quy mô nợ công của Nhật Bản lên tới 1450.000 tỷ yên, gấp 2,4 lần GDP, một khi tăng lãi xuất, sẽ làm tăng gánh nặng nợ quốc gia vốn đã rất nặng nghề. Vì vậy, hiện tại phần lớn các ngân hàng trung ương ở châu Á đang trong trạng thái chờ đợi, các biện pháp được áp dụng khá ôn hòa, vẫn hy vọng rằng nền kinh tế Mỹ sẽ suy yếu hoặc tỷ lệ làm phát giảm, cục dự trữ liên bang Mỹ sẽ sớm hạ lãi xuất. Một khi chỉ số đô la Mỹ giảm, áp lực mức giá đồng tiền của các nước châu Á sẽ được giảm xuống. Việc đồng tiền của các quốc gia châu Á mất giá mạnh một lần nữa đã bột lộ tính môn manh của hệ thống tiền tệ châu Á. Việc làm thế nào để duy trì sự ổn định đồng tiền của các nước châu Á trở thành nhiệm vụ cấp bách. Trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu ngày càng gây gắt, chủ nghĩa bảo hộ thương mại ngày càng mở rộng, những thay đổi và cú sốc trong hệ thống tài chính quốc tế ngày càng gia tăng. Việc thúc đẩy sự hội nhập kinh tế giữa các quốc gia châu Á, tăng cường kết nối và hợp tác trong khu vực về hệ thống tài chính và tiền tệ, đẩy mạnh quá trình phi đô la hóa và thúc đẩy quốc tế hóa đồng nội tệ sẽ giúp nâng cao vị thế của các quốc gia châu Á trong hệ thống tiền tệ toàn cầu. Từ đó giảm thiểu và ứng phó tốt hơn với rủi ro trên thị trường ngoại hối.

Listen Next

Other Creators