Details
Nothing to say, yet
Nothing to say, yet
Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa Tập 6, Quyển 129, ít ít ít phẩm so sánh Công Đức 27. Lại nữa, Bạch Thế Tôn. Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v. muốn được thường thấy pháp thân, sát thân, trí tuệ thân v.v. của tất cả như lại ứng chánh đẳng giác hiện thuyết dự pháp ở vô số vô biên thế giới trong mười phương, thì nên đối với Bát Nhã Ba La Mật Đa thậm thâm như thế, cung kính cúng dường, tôn trọng nợi khen, khí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh trận tu học, nhiều lý tư duy, vì các hữu tình tuyên thuyết, truyền bá trọng đại. Bạch Thế Tôn Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v. muốn được thường thấy pháp thân, sát thân, trí tuệ thân v.v. của tất cả như lại ứng chánh đẳng giác hiện tại trong cõi Phật này, thì nên đối với Bát Nhã Ba La Mật Đa thậm thâm như thế, cung kính cúng dường, tôn trọng nợi khen, khí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh trận tu học, nhiều lý tư duy, vì các hữu tình tuyên thuyết, truyền bá trọng đại. Bạch Thế Tôn Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v. muốn được thường thấy pháp thân, sát thân, trí tuệ thân v.v. của tất cả như lại ứng chánh đẳng giác ba đời trong mười phương, thì nên đối với Bát Nhã Ba La Mật Đa thậm thâm như thế, cung kính cúng dường, tôn trọng nợi khen, khí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh trận tu học, nhiều lý tư duy, vì các hữu tình tuyên thuyết, truyền bá trọng đại. Bạch Thế Tôn Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v. tu hành Bát Nhã Ba La Mật Đa, thì nên lấy pháp tánh, đối với các như lại ứng chánh đẳng giác, tu tùy Phật niệm. Bạch Thế Tôn Pháp tánh có hai, một là hữu vi, hai là vô vi. Bạch Thế Tôn Hoặc trí thân giới, trí xuất giới, trí thân thức giới, trí thân xuất, trí các thọ do thân xuất làm duyên sanh ra, hoặc trí ý giới, trí pháp giới, trí ý thức giới, trí ý xuất, trí các thọ do ý xuất làm duyên sanh ra, hoặc trí địa giới, trí thủy giới, trí họa giới, trí phong giới, trí không giới, trí thức giới, hoặc trí vô minh, trí hành, trí thức, trí danh sách, trí lục sử, trí xuất, trí thọ, trí ái, trí thủ, trí hữu, trí sanh, trí lão tử, trí sư tử, trí vô tử, trí sầu, thang, khổ, ưu, não, hoặc trí bố thí-ba-la-mật-đa, trí tình giới-ba-la-mật-đa, trí an nhẫn-ba-la-mật-đa, trí tình tấn-ba-la-mật-đa, trí tình lự-ba-la-mật-đa, trí bác nhã-ba-la-mật-đa, hoặc trí sông nội, trí sông ngoại, trí sông nội ngoại, trí sông không, trí sông lớn, trí sông thắng nhễ, trí sông hữu vi, trí sông vô vi, trí sông trốt tráo, trí sông không biên giới, trí sông tảng mạng, trí sông không đổi xác, trí sông bổng tánh, trí sông tự tướng, trí sông tổng tướng, trí sông tất cả pháp, trí sông chẳng thể nắm bắt được, trí sông không tánh, trí sông tự tánh, trí sông không tánh tự tánh, hoặc trí chân nhược, trí pháp giới, trí pháp tánh, trí tánh chẳng hư, vòng, trí tánh chẳng đổi xác, trí tánh bình đẳng, trí tánh ly xanh, trí định pháp, trí trụ pháp, trí thật tế, trí cảnh giới hư không, trí cảnh giới bất tư nhi, hoặc trí thánh đế khổ, trí thánh đế tập, trí thánh đế diệt, trí thánh đế đạo, hoặc trí 4 tỉnh lự, trí 4 vô lượng, trí 4 định vô sắc, hoặc trí 8 giải thoát, trí 8 thắng xứ, trí 9 định thứ đệ, trí 10 biến xứ. Cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen, trí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, nhiều lý tư duy, vì các hữu tình tuyên thuyết, truyền bá rộng đại. Bạch Thế Tôn Nếu Thiện Nam Tử, Thiện Nữ Nhân V.V. muốn được thường thấy pháp thân, sát thân, trí tuệ thân V.V. cũng như lại ứng chánh đẳng giác hiện tại trong cõi Phật này, thì nên đối với Bác Nhã Ba La Mật Đa thầm thâm như thế, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen, trí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, nhiều lý tư duy, vì các hữu tình tuyên thuyết, truyền bá rộng đại. Bạch Thế Tôn Nếu Thiện Nam Tử, Thiện Nữ Nhân V.V. muốn được thường thấy pháp thân, sát thân, trí tuệ thân V.V. cũng như lại ứng chánh đẳng giác hiện tại trong cõi Phật này, thì nên đối với Bác Nhã Ba La Mật Đa thầm thâm như thế, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen, trí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, nhiều lý tư duy, vì các hữu tình tuyên thuyết, truyền bá rộng đại. Bạch Thế Tôn Nếu Thiện Nam Tử, Thiện Nữ Nhân V.V. tu hành Bác Nhã Ba La Mật Đa, thì nên lấy pháp tánh, đối với các như lại ứng chánh đẳng giác, tu tùy Phật niệm. Bạch Thế Tôn Pháp tánh có hai, một là hữu vi, hai là vô vi. Trí ái, trí thủ, trí hữu, trí sanh, trí lão tử, sầu, thang, khổ, ưu, não, hoặc trí bố thí Ba La Mật Đa, trí tình, giới Ba La Mật Đa, trí an nhẫn Ba La Mật Đa, trí tinh tấn Ba La Mật Đa, trí tình lự Ba La Mật Đa, trí Bác Nhã Ba La Mật Đa. Hoặc trí thân giới, trí xúc giới, trí thân thức giới, trí thân xúc, trí các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra, hoặc trí ý giới, trí pháp giới, trí ý thức giới, trí ý xúc, trí các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra, hoặc trí địa giới, trí thủy giới, trí họa giới, trí phong giới, trí không giới, trí thức giới, hoặc trí vô minh, trí hành, trí thức, trí danh sách, trí luật sử, trí xúc, trí thọ, trí ái, trí thủ, trí hữu, trí sanh, trí lão tử, sầu, thang, khổ, ư nảo, hoặc trí bố thí Balamudda, trí tình giới Balamudda, trí an nhẫn Balamudda, trí tình tấn Balamudda, trí tình lự Balamudda, trí bác nhã Balamudda, hoặc trí sông nội, trí sông ngoại, trí sông nội ngoại, trí sông không, trí sông lớn, trí sông thắng nhẹ, trí sông hữu vi, trí sông vô vi, trí sông rốt tráo, trí sông không biên giới, trí sông tảng mạng, trí sông không đổi xác, trí sông bổn tánh, trí sông tự tướng, trí sông tổng tướng, trí sông tất cả pháp, trí sông chẳng thể nắm bắt được, trí sông không tánh, trí sông tự tánh, trí sông không tánh tự tánh, hoặc trí chân nhược, trí pháp giới, trí pháp tánh, trí tánh chẳng hư, vọng, trí tánh chẳng đổi xác, trí tánh bình đẳng, trí tánh ly xanh, trí định pháp, trí trụ pháp, trí thật tế, trí cảnh giới hư không, trí cảnh giới bất tư nghi, hoặc trí thánh đế khổ, trí thánh đế tập, trí thánh đế diệt, trí thánh đế đạo, hoặc trí 4 tịnh lự, trí 4 vô lượng, trí 4 định vô sắc, hoặc trí 8 giải thoát, trí 8 thắng sướng, trí 9 định thứ đệ, trí 10 biến sướng, hoặc trí 4 niệm trụ, trí 4 chánh đoạn, trí 4 thần túc, trí 5 căng, trí 5 lực, trí 7 chi đẳng giác, trí 8 chi thánh đạo, hoặc trí pháp môn giải thoát không, trí pháp môn giải thoát vô tướng, trí pháp môn giải thoát vô nguyện, hoặc trí 5 loại mắt, trí 6 phép thần thông, hoặc trí 10 lực của Phật, trí 4 điều không sợ, trí 4 sự hiểu biết thông suốt, trí đại tự, trí đại bi, trí đại hỷ, trí đại xã, trí 18 pháp Phật bất cộng, hoặc trí pháp không quên mất, trí tánh luôn luôn, xã, hoặc trí trí nhất thiết, trí trí đạo tướng, trí trí nhất thiết tướng, hoặc trí tất cả pháp môn Đà-la-ni, trí tất cả pháp môn Ta-ma-địa, hoặc trí dự lưu, trí nhất lai, trí bất hoàng, trí A-la-hán, hoặc trí dự lưu hướng, dự lưu quả, trí nhất lai hướng, nhất lai quả, trí bất hoàng hướng, bất hoàng quả, trí A-la-hán hướng, A-la-hán quả, hoặc trí độc giác, trí quả vị độc giác, hoặc trí đại Bồ-Tát, trí hành đại Bồ-Tát, hoặc trí tam miệu tam Phật đà, trí quả vị giác ngộ cao tột, hoặc trí pháp thiện, trí pháp bất thiện, trí pháp vô ký, hoặc trí pháp quá khứ, trí pháp vị lai, trí pháp hiện tại, hoặc trí pháp thuộc về dục giới, trí pháp thuộc về sắc giới, trí pháp thuộc về vô sắc giới, hoặc trí pháp học, trí pháp vô học, trí pháp phi học phi vô học, hoặc trí pháp kiến sở đoạn, trí pháp tu sở đoạn, trí pháp phi sở đoạn, hoặc trí pháp hữu sắc, trí pháp vô sắc, hoặc trí pháp hữu kiến, trí pháp vô kiến, hoặc trí pháp hữu đối, trí pháp vô đối, hoặc trí pháp hữu lậu, trí pháp vô lậu, hoặc trí pháp hữu vi, trí pháp vô vi, hoặc trí pháp hữu tội, trí pháp vô tội, hoặc trí pháp thế gian, trí pháp suất thế gian, hoặc trí pháp tạp nhiễm, trí pháp thanh tịnh. Vô lượng các loại trí như vậy đều gọi là pháp tánh hữu vi. Những gì gọi là pháp tánh vô vi? Đó là tất cả pháp không sanh, không diệt, không trụ, không dị, không nhiễm, không tịnh, không tăng, không giảm, không tướng, không tạo tác, không tánh tự tánh. Hoặc không có tánh thiệt giới, không có tánh vị giới, thiệt thức giới và thiệt xuất, cùng các thọ do thiệt xuất làm duyên sanh ra, hoặc không có tánh thân giới, không có tánh xuất giới, thân thức giới và thân xuất, cùng các thọ do thân xuất làm duyên sanh ra, hoặc không có tánh ý giới, không có tánh pháp giới, ý thức giới và ý xuất, cùng các thọ do ý xuất làm duyên sanh ra, hoặc không có tánh địa giới, không có tánh thủy, hỏa, phong, không, thức giới, hoặc không có tánh vô minh, không có tánh hành. Thức, danh sát, luật sứ, xuất, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, thang, khổ, ưu, não, hoặc không có tánh bố thí-ba-la-mật-đa, không có tánh tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, bác nhã-ba-la-mật-đa. Hoặc không có tánh thiệt giới, không có tánh vị giới, thiệt thức giới và thiệt xuất, cùng các thọ do thiệt xuất làm duyên sanh ra, hoặc không có tánh thân giới, không có tánh xuất giới, thân thức giới và thân xuất, cùng các thọ do thân xuất làm duyên sanh ra, hoặc không có tánh ý giới, không có tánh pháp giới, ý thức giới và ý xuất, cùng các thọ do ý xuất làm duyên sanh ra, hoặc không có tánh địa giới, không có tánh thủy, hỏa, phong, không, thức giới, hoặc không có tánh vô minh, không có tánh hành. Thức, danh sách, luật sứ, xuất, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, thang, khổ, ưu, não, hoặc không có tánh bố thí-ba-la-mật-đa, không có tánh tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, bác nhã-ba-la-mật-đa. Hoặc không có tánh pháp không nội, không có tánh pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không trốt tráo, pháp không không biên giới, pháp không tảng mạng, pháp không không đổi khác, pháp không bổn tánh, pháp không tự tướng, pháp không tổng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh, hoặc không có tánh. Chân như, không có tánh pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly xanh, định pháp, trụ pháp thực tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tương nhị, hoặc không có tánh thánh đế khổ, không có tánh thánh đế tập, diệt, đạo, hoặc không có tánh bốn tịnh lự, không có tánh bốn vô lượng, bốn định vô sắc, hoặc không có tánh tám giải thoát, không có tánh tám thắng sướng, chính định thứ đệ, mười tiếng sướng. Hoặc không có tánh bốn niệm trụ, không có tánh bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căng, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo, hoặc không có tánh pháp môn giải thoát không, không có tánh pháp môn giải thoát vô tướng, pháp môn giải thoát vô nguyện, hoặc không có tánh năm loại mắt, không có tánh sáu phép thần thông, hoặc không có tánh mười lực của Phật, không có tánh bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại tư, đại bi, đại hỷ, đại xã. Mười tám pháp Phật bất cộng, hoặc không có tánh pháp không quên mất, không có tánh tánh luôn luôn xã, hoặc không có tánh trí nhất thiết, không có tánh trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, hoặc không có tánh tất cả pháp môn Đà-la-ni, không có tánh tất cả pháp môn Ta-ma-địa, hoặc không có tánh dự lưu, không có tánh nhất lai, bất hoàng, à-la-hán, hoặc không có tánh dự lưu hướng, dự lưu quả, không có tánh nhất lai hướng, nhất lai quả, bất hoàng hướng, bất hoàng quả, à-la-hán hướng, à-la-hán quả. Hoặc không có tánh độc giác, không có tánh quả vị độc giác, hoặc không có tánh đại Bồ-Tát, hoặc không có tánh hành đại Bồ-Tát, hoặc không có tánh tam miều tam Phật đà, không có tánh quả vị giác ngộ cao tột, hoặc không có tánh pháp thiện, không có tánh pháp bất thiện, pháp vô ký, hoặc không có tánh pháp quá khứ, không có tánh pháp vị lai, hiện tại, hoặc không có tánh pháp thuộc dục giới, không có tánh pháp thuộc sắc giới, không có tánh pháp thuộc vô sắc giới, hoặc không có tánh pháp học, không có tánh pháp thuộc vô sắc giới, hoặc không có tánh pháp thuộc vô ký, không có tánh pháp vô ký, không có tánh pháp thuộc vô ký, hoặc không có tánh pháp thuộc vô ký, hoặc không có tánh pháp thuộc vô ký, hoặc không có tánh pháp thuộc vô ký, hoặc không có tánh pháp thuộc vô ký, hoặc không có tánh pháp thuộc vô ký, hoặc không có tánh pháp thuộc vô ký, hoặc không có tánh pháp thuộc vô ký, hoặc không có tánh pháp thuộc vô ký, hoặc không có tánh pháp thuộc vô ký, hoặc không có tánh pháp thuộc vô ký, hoặc không có tánh pháp thuộc vô ký, hoặc không có tánh pháp thuộc vô ký, đó là tất cả pháp không sanh, không diệt, không trụ, không dị, không nhiễm, không tịnh, không tăng, không giảm, không tướng, không tạo tác, không tánh tự tánh, hoặc không có tánh thiệt giới, không có tánh vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc, cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra, hoặc không có tánh thân giới, không có tánh xúc giới, thân thức giới và thân xúc, cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra, hoặc không có tánh ý giới, không có tánh pháp giới, ý thức giới và ý xúc, cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra, hoặc không có tánh địa giới, không có tánh thủy, hỏa, phong, không, thức giới, hoặc không có tánh vô minh, không có tánh hành, thức, danh sách, luật sứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, thang, khổ, ưu, não, hoặc không có tánh bố thí-ba-la-mật-đa, không có tánh tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, bác nhã-ba-la-mật-đa, hoặc không có tánh thiệt giới, không có tánh vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc, cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra, hoặc không có tánh thân giới, không có tánh xúc giới, thân thức giới và thân xúc, cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra, hoặc không có tánh ý giới, không có tánh pháp giới, ý thức giới và ý xúc, cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra, hoặc không có tánh địa giới, không có tánh thủy, hỏa, phong, không, thức giới, hoặc không có tánh vô minh, không có tánh hành, thức, danh sách, luật sứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, thang, khổ, ưu, não, hoặc không có tánh bố thí ba la mật đa, không có tánh tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, bác nhã ba la mật đa, hoặc không có tánh pháp không nội, không có tánh pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt tráo, pháp không không biên giới, pháp không tảng mạng, pháp không không đổi khác, pháp không bổn tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh, hoặc không có tánh. Chân như, không có tánh pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghi, hoặc không có tánh thánh đế khổ, không có tánh thánh đế tập, diệt, đạo, hoặc không có tánh 4 tịnh lự, không có tánh 4 vô lượng, 4 định vô sắc, hoặc không có tánh 8 giải thoát, không có tánh 8 thắng sướng, 9 định thứ đệ, 10 biến sướng, hoặc không có tánh 4 niệm trụ, không có tánh 4 chánh đoạn, 4 thần túc, 5 căng, 5 lực, 7 chi đẳng giác, 8 chi thánh đạo, hoặc không có tánh pháp môn giải thoát không, không có tánh pháp môn giải thoát vô tướng, pháp môn giải thoát vô nguyền, hoặc không có tánh 5 loại mắt, không có tánh 6 phép thần thông, hoặc không có tánh 10 lực của Phật, không có tánh 4 điều không sợ, 4 sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xã, 18 pháp Phật bất cộng, hoặc không có tánh pháp không quên mất, không có tánh tánh luôn luôn xã, hoặc không có tánh trí nhất thiết, không có tánh trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, hoặc không có tánh tất cả pháp môn Đà-la-ni, không có tánh tất cả pháp môn Ta-ma-địa, hoặc không có tánh dự lưu, không có tánh nhất lai, bất hoàng, à-la-hán, hoặc không có tánh dự lưu hướng, dự lưu quả, không có tánh nhất lai hướng, nhất lai quả, bất hoàng hướng, bất hoàng quả, à-la-hán hướng, à-la-hán quả, hoặc không có tánh độc giác, không có tánh quả vị độc giác, hoặc không có tánh Đại Bồ-Tát, hoặc không có tánh Hạnh Đại Bồ-Tát, hoặc không có tánh Tam Miệu Tam Phật Đà, không có tánh quả vị giác ngộ cao tổ, hoặc không có tánh pháp thiện, không có tánh pháp bất thiện, pháp vô ký, hoặc không có tánh pháp quá khứ, không có tánh pháp vị lai, hiện tại, hoặc không có tánh pháp thuộc dục giới, không có tánh pháp thuộc sắc giới, không có tánh pháp thuộc vô sắc giới, hoặc không có tánh pháp học, không, có tánh pháp vô học, phi học phi vô học, hoặc không có tánh pháp kiến sở đoạn, không có tánh pháp tu sở đoạn, phi sở đoạn, hoặc không có tánh pháp hữu sắc, không có tánh pháp vô sắc, hoặc không có tánh pháp hữu kiến, không có tánh pháp vô kiến, hoặc không có tánh pháp hữu đối, không có tánh pháp vô đối, hoặc không có tánh pháp hữu lậu, không có tánh pháp vô lậu, hoặc không có tánh pháp hữu vi, không có tánh pháp vô vi, hoặc không có tánh pháp hữu tội, không có tánh pháp vô tội, hoặc không có tánh pháp thế gian, không có tánh pháp suốt thế gian, hoặc không có tánh pháp tạp nhiễm, không có tánh pháp thanh tịnh, không có vô lượng các loại tánh như vậy, không không sở hữu, không tướng, không trạng, không ngôn, không thuyết, không hiểu, không biết, như vậy gọi là tự tánh không tánh. Các pháp tự tánh không tánh như vậy đều gọi là pháp tánh vô vi. Lúc bấy giờ, Phật bảo trời đế thích, đúng vậy. Đúng vậy. Như ông đã nói. Này Kiều Thi Ca! Như lai ứng chánh đẳng giác ở quá khứ đều do bác nhạ Ba-la-mật-đa thầm thâm như thế, đã chính quả vị giác ngộ cao tột. Như lai ứng chánh đẳng giác ở vị lai đều do bác nhạ Ba-la-mật-đa thầm thâm như thế, sẽ chính quả vị giác ngộ cao tột. Tất cả như lai ứng chánh đẳng giác hiện tại, ở vô lượng vô số vô biên thế giới trong mười phương, đều do bác nhạ Ba-la-mật-đa thầm thâm như thế, đang chính quả vị giác ngộ cao tột. Này Kiều Thi Ca! Đệ tử thanh văn của như lai ứng chánh đẳng giác trong quá khứ cũng do bác nhạ Ba-la-mật-đa thầm thâm như thế, đã chính đắc quả dự lưu, đã chính đắc quả nhất lai, bất hoàng, A-la-háng. Đệ tử thanh văn của như lai ứng chánh đẳng giác ở vị lai cũng do bác nhạ Ba-la-mật-đa thầm thâm như thế, sẽ chính đắc quả dự lưu, sẽ chính đắc quả nhất lai, bất hoàng, A-la-háng. Đệ tử thanh văn của tất cả như lai ứng chánh đẳng giác hiện tại ở vô lượng vô biên thế giới trong mười phương cũng do bác nhạ Ba-la-mật-đa thầm thâm như thế, đang chính đắc quả dự lưu, đang chính đắc quả nhất lai, bất hoàng, A-la-háng. Này Kiều Thi Ca! Độc giác trong quá khứ cũng do bác nhạ Ba-la-mật-đa thầm thâm như thế đã chính quả vị độc giác. Độc giác ở vị lai cũng do bác nhạ Ba-la-mật-đa thầm thâm như thế sẽ chính quả vị độc giác. Độc giác hiện tại cũng do bác nhạ Ba-la-mật-đa thầm thâm như thế đang chính quả vị độc giác. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì bác nhạ Ba-la-mật-đa như thế trong tạng bí mật đã trọng nói Pháp tương ưng ba thư. Nhưng vì Pháp đã nói là lấy vô sở đắc làm phương tiện, vô tánh, vô tướng làm phương tiện, vô sanh, vô diệt làm phương tiện, vô nhiễm, vô tịnh làm phương tiện, vô tạo, vô tác làm phương tiện, vô nhập, vô suất làm phương tiện, vô tăng, vô giảm làm phương tiện, vô thủ, vô xả làm phương tiện. Nên đã nói như vậy là do thế tục, chẳng phải thắng nghĩa. Chẳng phải là chẳng phải sở đoạn, chẳng phải hữu, chẳng phải không, chẳng phải cảnh, chẳng phải ký. Chẳng phải là chẳng phải sở đoạn, chẳng phải hữu, chẳng phải không, chẳng phải cảnh, chẳng phải ký. Đây Kiều Thi Ca! Bác Nhã-Ba-La-Mật-Đa như thế chẳng cùng Pháp Chiêu Phật, chẳng cùng Pháp Bồ-Tát, chẳng cùng Pháp Độc Giác, chẳng cùng Pháp Dự Lưu, chẳng cùng Pháp Nhất Lai, chẳng cùng Pháp Bất Hoàng, chẳng cùng Pháp A-La-Hán, chẳng bỏ Pháp Phạm Phu. Khi ấy, Trời đế thích lại Bạch Phật, Bạch Thế Tôn. Bác Nhã-Ba-La-Mật-Đa như thế là Ba-La-Mật-Đa lớn, là Ba-La-Mật-Đa vô thường, là Ba-La-Mật-Đa không gì bằng. Bạch Thế Tôn. Đại Bồ-Tát tu hành Bác Nhã-Ba-La-Mật-Đa như thế, tuy biết sự sai biệt về tâm hành cảnh giới của tất cả hữu tình nhưng chẳng đắt ngã, chẳng đắt hữu tình, dòng sinh mạng, sự sanh, sự dưỡng, sự trưởng thành, chủ thể luân hội, người do người sanh, ngã tối thắng, khả năng làm việc, khả năng khiến người làm việc, từ thọ quả báo, cái biết, cái thấy. Đại Bồ-Tát ấy cũng chẳng đắt sắc, chẳng đắt thọ, tưởng, hành, thức. Đại Bồ-Tát ấy cũng chẳng đắt nhãn sứ, chẳng đắt nhĩ, tỉ, thiệt, thân, y sứ. Đại Bồ-Tát ấy cũng chẳng đắt sắc sứ, chẳng đắt thanh, hương, vị, xúc, pháp sứ. Đại Bồ-Tát ấy cũng chẳng đắt nhãn giới, chẳng đắt sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc, cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra. Đại Bồ-Tát ấy cũng chẳng đắt nhĩ giới, chẳng đắt thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc, cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra. Đại Bồ-Tát ấy cũng chẳng đắt tỉ giới, chẳng đắt hương giới, tỉ thức giới và tỉ xúc, cùng các thọ do tỉ xúc làm duyên sanh ra. Đại Bồ-Tát ấy cũng chẳng đắt thiệt giới, chẳng đắt vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc, cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra. Đại Bồ-Tát ấy cũng chẳng đắt thân giới, chẳng đắt xúc giới, thân thức giới và thân xúc, cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra. Đại Bồ-Tát ấy cũng chẳng đắt ý giới, chẳng đắt pháp giới, ý thức giới và ý xúc, cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra. Đại Bồ-Tát ấy cũng chẳng đắt địa giới, chẳng đắt thủy, hỏa, phong, không, thức giới. Đại Bồ-Tát ấy cũng chẳng đắt vô minh, chẳng đắt hành, thức, danh sách, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não. Đại Bồ-Tát ấy cũng chẳng đắt bố thí-Ba-la-mật-đa, chẳng đắt tình giới, an nhẫn, tinh tấn, tình lự, bác nhã-Ba-la-mật-đa. Đại Bồ-Tát ấy cũng chẳng đắt Pháp không nội, chẳng đắt Pháp không ngoại, Pháp không nội ngoại, Pháp không không, Pháp không lớn, Pháp không thắng nỉa, Pháp không hữu vi, Pháp không vô vi, Pháp không rốt tráo, Pháp không không biên giới, Pháp không tảng mạng, Pháp không không đội khác, Pháp không bổn tánh, Pháp không tự tướng, Pháp không tổng tướng, Pháp không tất cả Pháp, Pháp không chẳng thể nắm bắt được, Pháp không không tánh, Pháp không tự tánh, Pháp không không tánh tự tánh. Đại Bồ-Tát ấy cũng chẳng đắt chân như, chẳng đắt Pháp giới, Pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đội khác, tánh bình đẳng, tánh ly xanh, định Pháp, trụ Pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghi. Đại Bồ-Tát ấy cũng chẳng đắt thánh đế khổ, chẳng đắt thánh đế tập, diệt, đạo. Đại Bồ-Tát ấy cũng chẳng đắt bốn tinh lự, chẳng đắt bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Đại Bồ-Tát ấy cũng chẳng đắt tám giải thoát, chẳng đắt tám thắng sướng, chính định thứ đệ, mười biến sướng. Đại Bồ-Tát ấy cũng chẳng đắt bốn niệm trụ, chẳng đắt bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căng, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo. Đại Bồ-Tát ấy cũng chẳng đắt Pháp môn giải thoát không, chẳng đắt Pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện. Đại Bồ-Tát ấy cũng chẳng đắt năm loại mắt, chẳng đắt sáu phép thần thông. Đại Bồ-Tát ấy cũng chẳng đắt mười lực của Phật, chẳng đắt bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xã, mười tám Pháp Phật bất cộng. Đại Bồ-Tát ấy cũng chẳng đắt Pháp không quên mất, chẳng đắt tánh luôn luôn xã. Đại Bồ-Tát ấy cũng chẳng đắt trí nhất thiết, chẳng đắt trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Đại Bồ-Tát ấy cũng chẳng đắt tất cả Pháp môn Đà-La-Ni, chẳng đắt tất cả Pháp môn Tam-ma-địa. Đại Bồ-Tát ấy cũng chẳng đắt dự lưu, chẳng đắt nhất lai, bất hoàng, à-la-hán. Đại Bồ-Tát ấy cũng chẳng đắt dự lưu hướng, dự lưu quả, chẳng đắt nhất lai hướng, nhất lai quả, bất hoàng hướng, bất hoàng quả, à-la-hán hướng, à-la-hán quả. Đại Bồ-Tát ấy cũng chẳng đắt độc giác, chẳng đắt quả vị độc giác. Đại Bồ-Tát ấy cũng chẳng đắt Đại Bồ-Tát, chẳng đắt Pháp Đại Bồ-Tát. Đại Bồ-Tát ấy cũng chẳng đắt Tam-miệu Tam Phật-đà, chẳng đắt Pháp Tam-miệu Tam Phật-đà. Vì sao? Vì chẳng phải bát nhã Ba-la-mật-đa này do có sở đắc mà hiện tiền. Vì sao? Vì bát nhã Ba-la-mật-đa thậm thâm hoàn toàn không có tự tánh, cũng chẳng thể nắm bắt được, năng đắc, sở đắc và hai chỗ nương là tánh, tướng đều không, chẳng thể nắm bắt được. Lúc bấy giờ, Phật bảo trời đế thích, đúng vậy. Đúng vậy. Đúng như ông đã nói. Vì sao? Này Kiều Thi Ca! Vì Đại Bồ-Tát lấy vô sở đắc làm phương tiện, tu hành lâu dài bát nhã Ba-la-mật-đa thậm thâm, còn chẳng đắt Bồ-đệ và tát đỏa, húng là đắt Đại Bồ-Tát. Đại Bồ-Tát này đã chẳng thể nắm bắt được, thì đâu đắt Pháp Đại Bồ-Tát? Bồ-Tát cùng Pháp còn chẳng thể nắm bắt được, húng là đắt Chư Phật và Pháp của Chư Phật. Khi ấy, trời đế thích lại bạch Phật, bạch Thế Tôn. Đại Bồ-Tát chỉ tu hành bát nhã Ba-la-mật-đa hay cũng còn tu hành năm Ba-la-mật-đa khác? Phật dạy, này Kiều Thi Ca! Đại Bồ-Tát lấy vô sở đắc làm phương tiện, tu hành đầy đủ sáu phép Ba-la-mật-đa. Khi tu hành bố thí chẳng đắt người cho, chẳng đắt trẻ nhận, chẳng đắt sự cho và vật cho. Khi tu hành tỉnh giới, chẳng đắt tỉnh giới, chẳng đắt ác giới, chẳng đắt người giữ tỉnh giới. Khi tu hành an nhẫn, chẳng đắt an nhẫn, chẳng đắt sự nóng giận, chẳng đắt người tu hành an nhẫn. Khi tu hành tinh tấn, chẳng đắt tinh tấn, chẳng đắt giải đại, chẳng đắt người tu hành tinh tấn. Khi tu hành tình lự, chẳng đắt tình lự, chẳng đắt tán loạn, chẳng đắt người tu hành tình lự. Khi tu hành bát nhã, chẳng đắt bát nhã, chẳng đắt ác tuệ, chẳng đắt người tu hành bát nhã. Lại nữa, Chiều Thi Ca Bát nhã Ba-la-mật-đa thậm thâm của Đại Bồ-Tát là Pháp Tôn Quý, là Pháp hướng dẫn, tu tập tất cả Ba-la-mật-đa khiến mau viên mãn. Đại Bồ-Tát ấy khi tu hành bố thí, thì bát nhã Ba-la-mật-đa thậm thâm là Pháp Tôn Quý, là Pháp hướng dẫn, đã tu bố thí Ba-la-mật-đa không chấp trước thì mau được viên mãn. Đại Bồ-Tát ấy khi tu hành tịnh giới, thì bát nhã Ba-la-mật-đa thậm thâm là Pháp Tôn Quý, là Pháp hướng dẫn, đã tu tịnh giới Ba-la-mật-đa không chấp trước thì mau được viên mãn. Đại Bồ-Tát ấy khi tu hành an nhẫn, thì bát nhã Ba-la-mật-đa thậm thâm là Pháp Tôn Quý, là Pháp hướng dẫn, đã tu an nhẫn Ba-la-mật-đa không chấp trước thì mau được viên mãn. Đại Bồ-Tát ấy khi tu hành tinh tấn, thì bát nhã Ba-la-mật-đa thậm thâm là Pháp Tôn Quý, là Pháp hướng dẫn, đã tu tinh tấn Ba-la-mật-đa không chấp trước thì mau được viên mãn. Đại Bồ-Tát ấy khi tu hành tịnh lự, thì bát nhã Ba-la-mật-đa thậm thâm là Pháp Tôn Quý, là Pháp hướng dẫn, đã tu tịnh lự Ba-la-mật-đa không chấp trước thì mau được viên mãn. Đại Bồ-Tát ấy khi tu hành bát nhã, thì bát nhã Ba-la-mật-đa thậm thâm là Pháp Tôn Quý, là Pháp hướng dẫn, đã tu bát nhã Ba-la-mật-đa không chấp trước thì mau được viên mãn. Lại nữa, Kiều Thi Ca. Đại Bồ-Tát ấy đối với tất cả Pháp, lấy vô sở đắc làm phương tiện, tu tập bát nhã Ba-la-mật-đa không chấp trước, khiến sự tu tập mau được viên mãn. Đại Bồ-Tát ấy đối với sắc, lấy vô sở đắc làm phương tiện, tu tập bát nhã Ba-la-mật-đa, đối với thọ, tưởng, hành, thức, lấy vô sở đắc làm phương tiện, tu tập bát nhã Ba-la-mật-đa. Do duyên cớ không chấp trước này khiến sự tu hành mau được viên mãn. Đại Bồ-Tát ấy đối với nhãn xứ, lấy vô sở đắc làm phương tiện, tu tập bát nhã Ba-la-mật-đa, đối với nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý xứ, lấy vô sở đắc làm phương tiện, tu tập bát nhã Ba-la-mật-đa. Do duyên cớ không chấp trước này khiến sự tu tập mau được viên mãn. Đại Bồ-Tát ấy đối với sát xứ, lấy vô sở đắc làm phương tiện, tu tập bát nhã Ba-la-mật-đa, đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, lấy vô sở đắc làm phương tiện, tu tập bát nhã Ba-la-mật-đa. Do duyên cớ không chấp trước này khiến sự tu tập mau được viên mãn. Đại Bồ-Tát ấy đối với nhãn giới, lấy vô sở đắc làm phương tiện, tu tập bát nhã Ba-la-mật-đa, đối với sát giới, nhãn thức giới và nhãn khúc, cùng các thọ do nhãn khúc làm duyên sanh ra, lấy vô sở đắc làm phương tiện, tu tập bát nhã Ba-la-mật-đa. Do duyên cớ không chấp trước này khiến sự tu tập mau được viên mãn. Đại Bồ-Tát ấy đối với nhãn giới, lấy vô sở đắc làm phương tiện, tu tập bát nhã Ba-la-mật-đa, đối với thanh giới, nhãn thức giới và nhãn xúc, cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, lấy vô sở đắc làm phương tiện, tu tập bát nhã Ba-la-mật-đa. Do duyên cớ không chấp trước này khiến sự tu tập mau được viên mãn. Đại Bồ-Tát ấy đối với thiệt giới, lấy vô sở đắc làm phương tiện, tu tập bát nhã Ba-la-mật-đa, đối với hương giới, thiệt thức giới và thiệt xúc, cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra, lấy vô sở đắc làm phương tiện, tu tập bát nhã Ba-la-mật-đa. Do duyên cớ không chấp trước này khiến sự tu tập mau được viên mãn. Đại Bồ-Tát ấy đối với thiệt giới, lấy vô sở đắc làm phương tiện, tu tập bát nhã Ba-la-mật-đa, đối với vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc, cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra, lấy vô sở đắc làm phương tiện, tu tập bát nhã Ba-la-mật-đa. Do duyên cớ không chấp trước này khiến sự tu tập mau được viên mãn. Đại Bồ-Tát ấy đối với thân giới, lấy vô sở đắc làm phương tiện, tu tập bát nhã Ba-la-mật-đa, đối với xúc giới, thân thức giới và thân xúc, cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra, lấy vô sở đắc làm phương tiện, tu tập bát nhã Ba-la-mật-đa. Do duyên cớ không chấp trước này khiến sự tu tập mau được viên mãn. Đại Bồ-Tát ấy đối với ý giới, lấy vô sở đắc làm phương tiện, tu tập bát nhã Ba-la-mật-đa, đối với pháp giới, ý thức giới và ý xúc, cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra, lấy vô sở đắc làm phương tiện, tu tập bát nhã Ba-la-mật-đa. Do duyên cớ không chấp trước này khiến sự tu tập mau được viên mãn. Đại Bồ-Tát ấy đối với địa giới, lấy vô sở đắc làm phương tiện, tu tập bát nhã Ba-la-mật-đa, đối với thủy, hỏa, phong, không, thức giới, lấy vô sở đắc làm phương tiện, tu tập bát nhã Ba-la-mật-đa. Do duyên cớ không chấp trước này khiến sự tu tập mau được viên mãn. Đại Bồ-Tát ấy đối với vô minh, lấy vô sở đắc làm phương tiện, tu tập bát nhã Ba-la-mật-đa, đối với hành, thức, danh sách, luật sứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, thang, khổ, ưu, não, lấy vô sở đắc làm phương tiện, tu tập bát nhã Ba-la-mật-đa. Do duyên cớ không chấp trước này khiến sự tu tập mau được viên mãn. Đại Bồ-Tát ấy đối với Pháp không nội, lấy vô sở đắc làm phương tiện, tu tập bát nhã Ba-la-mật-đa, đối với Pháp không ngoại, Pháp không nội ngoại, Pháp không không, Pháp không lớn, Pháp không thắng nghĩa, Pháp không hữu vi, Pháp không vô vi, Pháp không trốt tráo, Pháp không không biên giới, Pháp không tảng mạng, Pháp không không đội khác, Pháp không bản tánh, Pháp không tự tướng, Pháp không tổng tướng, Pháp không tất cả Pháp, Pháp không chẳng thể nắm bắt được, Pháp không chẳng thể nắm bắt được, Pháp không chẳng thể nắm bắt được, Pháp không chẳng thể Pháp không không tánh, Pháp không tự tánh, Pháp không không tánh tự tánh, lấy vô sở đắc làm phương tiện, tu tập bát nhã Ba-la-mật-đa. Do duyên chớ không chấp trước này khiến sự tu tập mau được viên mãn. Đại Bồ-Tát ấy đối với Chân Như, lấy vô sở đắc làm phương tiện, tu tập bát nhã Ba-la-mật-đa. Đối với Pháp Giới, Pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đội khác, tánh bình đẳng, tánh ly xanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tương nghi, lấy vô sở đắc làm phương tiện, tu tập bát nhã Ba-la-mật-đa. Do duyên chớ không chấp trước này khiến sự tu tập mau được viên mãn. Đại Bồ-Tát ấy đối với Chân Như, lấy vô sở đắc làm phương tiện, tu tập bát nhã Ba-la-mật-đa. Do duyên chớ không chấp trước này khiến sự tu tập mau được viên mãn. Đại Bồ-Tát ấy đối với Chân Như, lấy vô sở đắc làm phương tiện, tu tập bát nhã Ba-la-mật-đa. Đối với Pháp Giới, Pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh định pháp, thật tế, cảnh giới bất tương nghi, lấy vô sở đắc làm phương tiện, tu tập bát nhã Ba-la-mật-đa. Đại Bồ-Tát ấy đối với tám giải thoát, lấy vô sở đắc làm phương tiện, tu tập bát nhã Ba-la-mật-đa. Đối với tám thắng xướng, chính định thứ đệ, mười biến xướng, lấy vô sở đắc làm phương tiện, tu tập bát nhã Ba-la-mật-đa. Do duyên chớ không chấp trước này khiến sự tu tập mau được viên mãn. Đại Bồ-Tát ấy đối với bốn niệm trụ, lấy vô sở đắc làm phương tiện, tu tập bát nhã Ba-la-mật-đa. Đối với bốn chánh đoạn, bốn thận túc, năm căng, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo, lấy vô sở đắc làm phương tiện, tu tập bát nhã Ba-la-mật-đa. Do duyên chớ không chấp trước này khiến sự tu tập mau được viên mãn. Đại Bồ-Tát ấy đối với pháp môn giải thoát không, lấy vô sở đắc làm phương tiện, tu tập bát nhã Ba-la-mật-đa. Đối với pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện, lấy vô sở đắc làm phương tiện, tu tập bát nhã Ba-la-mật-đa. Do duyên chớ không chấp trước này khiến sự tu tập mau được viên mãn. Đại Bồ-Tát ấy đối với năm loại mắt, lấy vô sở đắc làm phương tiện, tu tập bát nhã Ba-la-mật-đa. Đối với sáu phép thần thông, lấy vô sở đắc làm phương tiện, tu tập bát nhã Ba-la-mật-đa. Do duyên chớ không chấp trước này khiến sự tu tập mau được viên mãn. Đại Bồ-Tát ấy đối với mười lực của Phật, lấy vô sở đắc làm phương tiện, tu tập bát nhã Ba-la-mật-đa. Đối với bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, Đại Từ, Đại Bi, Đại Hỷ, Đại Phả, mười tám pháp Phật bất cộng, lấy vô sở đắc làm phương tiện, tu tập bát nhã Ba-la-mật-đa. Do duyên chớ không chấp trước này khiến sự tu tập mau được viên mãn. Đại Bồ-Tát ấy đối với Pháp không quên mất, lấy vô sở đắc làm phương tiện, tu tập bát nhã Ba-la-mật-đa. Đối với tánh luôn luôn phả, lấy vô sở đắc làm phương tiện, tu tập bát nhã Ba-la-mật-đa. Do duyên chớ không chấp trước này khiến sự tu tập mau được viên mãn. Đại Bồ-Tát ấy đối với trí nhất thiết, lấy vô sở đắc làm phương tiện, tu tập bát nhã Ba-la-mật-đa. Đối với trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, lấy vô sở đắc làm phương tiện, tu tập bát nhã Ba-la-mật-đa. Do duyên chớ không chấp trước này khiến sự tu tập mau được viên mãn. Đại Bồ-Tát ấy đối với tất cả pháp môn Đà-la-ni, lấy vô sở đắc làm phương tiện, tu tập bát nhã Ba-la-mật-đa. Đối với tất cả pháp môn Tam-ma-địa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, tu tập bát nhã Ba-la-mật-đa. Do duyên chớ không chấp trước này khiến sự tu tập mau được viên mãn. Đại Bồ-Tát ấy đối với dự lưu, lấy vô sở đắc làm phương tiện, tu tập bát nhã Ba-la-mật-đa. Đối với nhất lai, bất hoàng, A-la-hán, lấy vô sở đắc làm phương tiện, tu tập bát nhã Ba-la-mật-đa. Do duyên chớ không chấp trước này khiến sự tu tập mau được viên mãn. Đại Bồ-Tát ấy đối với dự lưu hướng, dự lưu quả, lấy vô sở đắc làm phương tiện, tu tập bát nhã Ba-la-mật-đa. Đối với nhất lai hướng, nhất lai quả, bất hoàng hướng, bất hoàng quả, A-la-hán hướng, A-la-hán quả, lấy vô sở đắc làm phương tiện, tu tập bát nhã Ba-la-mật-đa. Do duyên chớ không chấp trước này khiến sự tu tập mau được viên mãn. Đại Bồ-Tát ấy đối với độc giác, lấy vô sở đắc làm phương tiện, tu tập bát nhã Ba-la-mật-đa. Đối với quả vị độc giác, lấy vô sở đắc làm phương tiện, tu tập bát nhã Ba-la-mật-đa. Do duyên chớ không chấp trước này khiến sự tu tập mau được viên mãn. Do duyên chớ không chấp trước này khiến sự tu tập mau được viên mãn. Như ở châu Thiện Bộ có các thứ cây, mà cành, nhánh, thân, gốc, hoa, lá, quả, hạt, tuy có đủ loại hình sắc chẳng đồng nhưng bóng của nó hoàn toàn không sai khác. Như vậy, bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, bát nhã Ba-la-mật-đa, tuy mỗi pháp có sự sai khác, nhưng vì do bát nhã Ba-la-mật-đa nhiếp thọ, hồi hướng chí nhất thiết trí, lấy vô sở đắc làm phương tiện, nên cũng không có sự sai khác. Lúc bấy giờ, trời đế thích Bạch Phật, Bạch Thế Tôn. Thành tựu công đức thù thắng vô giới hạn, bát nhã Ba-la-mật-đa như thế thành tựu công đức thù thắng không gì bằng, bát nhã Ba-la-mật-đa như thế thành tựu công đức thù thắng khó nghĩ bằng, bát nhã Ba-la-mật-đa như thế thành tựu công đức thù thắng chẳng thể nói hết. Bạch Thế Tôn Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v. sao chép bát nhã Ba-la-mật-đa thậm thâm như thế, trang trí bằng các vật báu, dùng vô lượng các thứ tràn hoa, hương soa, hương bột v.v. việt dịu, y phục, anh lạc, tràn phang, lọng báu, các thứ ngọc quý, khỉ nhạc, đèn sáng, hết cả vật sở hữu, cùng chính cúng dường, tôn trọng ngợi khen, y theo kinh nói, như lý tư duy, hoặc có thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v. sao chép bát nhã Ba-la-mật-đa thậm thâm như thế, trang trí bằng các vật báu, dùng vô lượng các thứ tràn hoa, hương soa, hương bột v.v. việt dịu, y phục, anh lạc, tràn phang, lọng báu, các thứ ngọc quý, khỉ nhạc, đèn sáng, hết cả vật sở hữu, cùng chính cúng dường, như lý tư duy, hoặc có thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v. sao chép bát nhã Ba-la-mật-đa thậm thâm như thế, trang trí bằng các vật báu, dùng vô lượng các thứ tràn hoa, hương soa, hương bột v.v. việt dịu, y phục, anh lạc, tràn phang, lọng báu, các thứ ngọc quý, khỉ nh nhạc, đèn sáng, hết cả vật sở hữu, cùng chính cúng dường, tôn trọng nợi khen, hoặc có thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v. thỉnh được xá lợi Phật, phân trà biếu cho người khác, nhiều như hạt cải, khiến họ kính thọ, như Pháp mà. Tôn trí, lại dùng vô lượng tràn hoa, hương soa, hương bột v.v. tuyệt dịu, y phục, anh lạc, tràn phang, lọng báu, các thứ ngọc quý, khỉ nhạc, đèn sáng hết cả vật sở hữu, cùng chính cúng dường, tôn trọng nợi khen, thì theo ý ông thế nào? Hai loại phước trước, sau như vậy, loại nào nhiều hơn? Trời đế thích bạch Phật, bạch Thế Tôn. Phân trì biếu tặng cho người khác nhiều như hạt cải, khiến họ kính thọ, như Pháp mà. Tôn trí, lại dùng vô lượng tràn hoa, hương soa, hương bột v.v. tuyệt dịu, y phục, anh lạc, tràn phang, lọng báu, các thứ ngọc quý, khỉ nhạc, đèn sáng hết cả vật sở hữu, cùng chính cúng dường, tôn trọng nợi khen thì trong hai loại phước này, loại sao nhiều hơn? Vì sao? Vì tất cả như lai ứng chánh đẳng giác, vốn lấy đại bi quan sát các loại hữu tình, nên đối với kẻ quy kính cúng dường chỗ tôn trí xá lợi Phật, thì được trú độ. Ngài dùng sức định kim can dụ nhiền nát thân kim can nhỏ như hạt cải, lại dùng thần lực đại bi sâu rộng gia trì xá lợi Phật ấy, khiến sau khi như lai nhập niết bàn, ai có được một hạt nhỏ như hạt cải, dùng các thứ lễ vật cúng dường thì phước ấy vô biên, ở trong cõi trời, người thọ hưởng các thú vui màu nhìm, cho đến sau cùng được thoát hết khổ. Cho nên, người biếu tặng xá lợi cho kẻ khác, phước ấy rất nhiều. Cảm ơn các bạn đã theo dõi và hẹn gặp lại.