Details
Nothing to say, yet
Nothing to say, yet
Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa Tập 7, Quyển 154, xxx Phẩm So Sánh Công Đức 52, Lại nữa, Kiều Thi Ca. Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v. vì người phát tâm vô thường bồ đệ, tuyên thuyết tinh tấn Ba La Mật Đa, thì nói thế này, thiện nam tử. Người nên tu tinh tấn Ba La Mật Đa, chẳng nên quán chân như hoặc thường, hoặc vô thường, chẳng nên quán pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly xanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất cưng nghi hoặc thường, hoặc vô thường. Vì sao? Vì chân như và tử tánh của chân như là không, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly xanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất cưng nghi và tử tánh của pháp giới cho đến cảnh giới bất cưng nghi là không. Tử tánh của chân như ấy thức chẳng phải là tử tánh, tử tánh của pháp giới cho đến cảnh giới bất cưng nghi ấy cũng chẳng phải là tử tánh. Nếu chẳng phải là tử tánh thì tức là tinh tấn Palamudda. Đối với tinh tấn Palamudda này, chân như chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được, pháp giới cho đến cảnh giới bất cưng nghi đều chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó, còn không có chân như V, V, có thể nắm bắt được, húng là có cái thường và vô thường kia. Nếu người có khả năng tu tinh tấn như thế là tu tinh tấn Palamudda. Lại nói thế này, thiện nam tử. Người nên tu tinh tấn Palamudda, chẳng nên quán chân như hoạt lạc, hoạt khổ, chẳng nên quán pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly xanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất cưng nghi hoạt lạc, hoạt khổ. Vì sao? Vì chân như và tử tánh của chân như là không, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly xanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất cưng nghi và tử tánh của pháp giới cho đến cảnh giới bất cưng nghi là không. Tử tánh của chân như ấy tức chẳng phải là tử tánh, tử tánh của pháp giới cho đến cảnh giới bất cưng nghi ấy cũng chẳng phải là tử tánh. Nếu chẳng phải là tử tánh thì tức là tinh tấn ba la mật đa. Đối với tinh tấn ba la mật đa này, chân như chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được, pháp giới cho đến cảnh giới bất cưng nghi đều chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó, còn không có chân như v, v, có thể nắm bắt được, huống là có cái lạc và khổ kia. Nếu người có khả năng tu tinh tấn như thế là tu tinh tấn ba la mật đa. Lại nói thế này, thiện nam tử. Người nên tu tinh tấn ba la mật đa, chẳng nên quán chân như hoạt ngã, hoạt vô ngã, chẳng nên quán pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly xanh, định pháp, trụ pháp, thực tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất cưng nghi hoạt ngã, hoạt vô ngã. Vì sao? Vì chân như và tử tánh của chân như là không, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly xanh, định pháp, trụ pháp, thực tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất cưng nghi và tử tánh của pháp giới cho đến cảnh giới bất cưng nghi là không. Tử tánh của chân như ấy tức chẳng phải là tử tánh, tử tánh của pháp giới cho đến cảnh giới bất cưng nghi ấy cũng chẳng phải là tử tánh. Nếu chẳng phải là tử tánh thì tức là tinh tấn ba la mật đa. Đối với tinh tấn ba la mật đa này, chân như chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được, pháp giới cho đến cảnh giới bất cưng nghi đều chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có chân như v, v, có thể nắm bắt được, cũng là có cái ngã và vô ngã kia. Nếu người có khả năng tu tinh tấn như thế là tu tinh tấn ba la mật đa. Lại nói thế này, thiện nam tử. Người nên tu tinh tấn ba la mật đa, chẳng nên quán chân như hoạt tịnh, hoạt bất tịnh, chẳng nên quán pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly xanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất cưng nghi hoạt tịnh, hoạt bất tịnh. Vì sao? Vì chân như và tử tánh của chân như là không, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly xanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất cưng nghi và tử tánh của pháp giới cho đến cảnh giới bất cưng nghi là không. Tử tánh của chân như ấy tức chẳng phải là tử tánh, tử tánh của pháp giới cho đến cảnh giới bất cưng nghi ấy cũng chẳng phải là tử tánh. Nếu chẳng phải là tử tánh thì tức là tinh tấn Palamarda. Đối với tinh tấn Palamarda này, chân như chẳng thể nắm bắt được thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được, pháp giới cho đến cảnh giới bất cưng nghi đều chẳng thể nắm bắt được thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó, còn không có chân như V, V, có thể nắm bắt được, huống là có cái tịnh và bất tịnh kia. Nếu người có khả năng tu tinh tấn như thế là tu tinh tấn Palamarda. Này Kiều Thi Ca! Thiện nam tử, thiện nữ nhân V, V, ấy nói những điều đó là tuyên thuyết tinh tấn Palamarda một cách chân chánh. Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân V, V, vì người phát tâm vô thường bồ đề, tuyên thuyết tinh tấn Palamarda, thì nói thế này, thiện nam tử! Người nên tu tinh tấn Palamarda, chẳng nên quán thánh đế khổ hoặc thường, hoặc vô thường, chẳng nên quán thánh đế tập, diệt, đạo hoặc thường, hoặc vô thường. Vì sao? Vì thánh đế khổ và tử tánh của thánh đế khổ là không, thánh đế tập, diệt, đạo và tử tánh của thánh đế tập, diệt, đạo là không. Tử tánh của thánh đế khổ ấy tức chẳng phải là tử tánh, tử tánh của thánh đế tập, diệt, đạo ấy cũng chẳng phải là tử tánh. Nếu chẳng phải là tử tánh thì tức là tinh tấn Palamarda. Đối với tinh tấn Palamarda này, thánh đế khổ chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được, thánh đế tập, diệt, đạo đều chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó, còn không có thánh đế khổ V. V, có thể nắm bắt được, hữu là có cái thường và vô thường kia. Nếu ngươi có khả năng tu tinh tấn như thế là tu tinh tấn Palamarda. Lại nói thế này, Thiện Nam Tử. Ngươi nên tu tinh tấn Palamarda, chẳng nên quán thánh đế khổ hoặc lạc, hoặc khổ, chẳng nên quán thánh đế tập, diệt, đạo hoặc lạc, hoặc khổ. Vì sao? Vì thánh đế khổ và tử tánh của thánh đế khổ là không, thánh đế tập, diệt, đạo và tử tánh của thánh đế tập, diệt, đạo là không. Tử tánh của thánh đế khổ ấy tức chẳng phải là tử tánh, tử tánh của thánh đế tập, diệt, đạo ấy cũng chẳng phải là tử tánh. Nếu chẳng phải là tử tánh thì tức là tinh tấn Palamarda. Đối với tinh tấn Palamarda này, thánh đế khổ chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được, thánh đế tập, diệt, đạo đều chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có thánh đế khổ V, V có thể nắm bắt được, huống là có cái lạc và khổ kia. Nếu ngươi có khả năng tu tinh tấn như thế là tu tinh tấn Palamarda. Lại nói thế này, thiện nam tử. Ngươi nên tu tinh tấn Palamarda, chẳng nên quán thánh đế khổ hoặc ngã, hoặc vô ngã, chẳng nên quán thánh đế tập, diệt, đạo hoặc ngã, hoặc vô ngã. Vì sao? Vì thánh đế khổ và tử tánh của thánh đế khổ là không, thánh đế tập, diệt, đạo và tử tánh của thánh đế tập, diệt, đạo là không. Tử tánh của thánh đế khổ ấy tức chẳng phải là tử tánh, tử tánh của thánh đế tập, diệt, đạo ấy cũng chẳng phải là tử tánh. Nếu chẳng phải là tử tánh thì tức là tinh tấn Palamarda. Đối với tinh tấn Palamarda này, thánh đế khổ chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được, thánh đế tập, diệt, đạo đều chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có thánh đế khổ v, v, có thể nắm bắt được, huống là có cái ngã và vô ngã kia. Nếu ngươi có khả năng tu tinh tấn như thế là tu tinh tấn Palamarda. Lại nói thế này, thiện nam tử. Ngươi nên tu tinh tấn Palamarda, chẳng nên quán thánh đế khổ hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, chẳng nên quán thánh đế tập, diệt, đạo hoặc tịnh, hoặc bất tịnh. Vì sao? Vì thánh đế khổ và tử tánh của thánh đế khổ là không, thánh đế tập, diệt, đạo và tử tánh của thánh đế tập, diệt, đạo là không. Tử tánh của thánh đế khổ ấy tức chẳng phải là tử tánh, tử tánh của thánh đế tập, diệt, đạo ấy cũng chẳng phải là tử tánh. Nếu chẳng phải là tử tánh thì tức là tinh tấn Palamarda. Đối với tinh tấn Palamarda này, thánh đế khổ chẳng thể nắm bắt được thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được, thánh đế tập, diệt, đạo đều chẳng thể nắm bắt được thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có thánh đế khổ v.v. có thể nắm bắt được, huống là có cái tịnh và bất tịnh kia. Nếu người có khả năng tu tinh tấn như thế là tu tinh tấn Palamarda. Này Kiều Thi Ca! Thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v. ấy nói những điều đó là tuyên thuyết tinh tấn Palamarda một cách chân chánh. Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v. vì người phát tâm vô thường bồ đệ, tuyên thuyết tinh tấn Palamarda thì nói thế này, thiện nam tử! Người nên tu tinh tấn Palamarda chẳng nên quán bốn tịnh lự hoặc thường, hoặc vô thường, chẳng nên quán bốn vô lượng, bốn định vô sắc hoặc thường, hoặc vô thường. Vì sao? Vì bốn tịnh lự và tử tánh của bốn tịnh lự là không, bốn vô lượng, bốn định vô sắc và tử tánh của bốn vô lượng, bốn định vô sắc là không. Tử tánh của bốn tịnh lự ấy tức chẳng phải là tử tánh, tử tánh của bốn vô lượng, bốn định vô sắc ấy cũng chẳng phải là tử tánh. Nếu chẳng phải là tử tánh thì tức là tinh tấn Palamarda. Đối với tinh tấn Palamarda này, bốn tịnh lự chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được, bốn vô lượng, bốn định vô sắc đều chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có bốn tịnh lự V. V, có thể nắm bắt được, huống là có cái thường và vô thường kia. Nếu người có khả năng tu tinh tấn như thế là tu tinh tấn Palamarda. Lại nói thế này, thiện nam tử. Người nên tu tinh tấn Palamarda chẳng nên quán bốn tịnh lự hoặc lạc, hoặc khổ, chẳng nên quán bốn vô lượng, bốn định vô sắc hoặc lạc, hoặc khổ. Vì sao? Vì bốn tịnh lự và tử tánh của bốn tịnh lự là không, bốn vô lượng, bốn định vô sắc và tử tánh của bốn vô lượng, bốn định vô sắc là không. Tử tánh của bốn tịnh lự ấy tức chẳng phải là tử tánh, tử tánh của bốn vô lượng, bốn định vô sắc ấy cũng chẳng phải là tử tánh. Nếu chẳng phải là tử tánh thì tức là tinh tấn Palamarda. Đối với tinh tấn Palamarda này, bốn tịnh lự chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được, bốn vô lượng, bốn định vô sắc đều chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có bốn tịnh lự V, V có thể nắm bắt được, huống là có cái lạc và khổ kia. Nếu ngươi có khả năng tu tinh tấn như thế là tu tinh tấn Palamarda. Lại nói thế này, thiện nam tử. Ngươi nên tu tinh tấn Palamarda, chẳng nên quán bốn tịnh lự hoặc ngã, hoặc vô ngã, chẳng nên quán bốn vô lượng, bốn định vô sắc hoặc ngã, hoặc vô ngã. Vì sao? Vì bốn tịnh lự và tự tánh của bốn tịnh lự là không, bốn vô lượng, bốn định vô sắc và tự tánh của bốn vô lượng, bốn định vô sắc là không. Tự tánh của bốn tịnh lự ấy tức chẳng phải là tự tánh, tự tánh của bốn vô lượng, bốn định vô sắc ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tinh tấn Palamarda. Đối với tinh tấn Palamarda này, bốn tịnh lự chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được, bốn vô lượng, bốn định vô sắc đều chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có bốn tịnh lự V, V có thể nắm bắt được, huống là có cái ngã và vô ngã kia. Nếu người có khả năng tu tinh tấn như thế là tu tinh tấn Palamarda. Lại nói thế này, thiện nam tử. Người nên tu tinh tấn Palamarda chẳng nên quán bốn tịnh lự hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, chẳng nên quán bốn vô lượng, bốn định vô sắc hoặc tịnh, hoặc bất tịnh. Vì sao? Vì bốn tịnh lự và tự tánh của bốn tịnh lự là không, bốn vô lượng, bốn định vô sắc và tự tánh của bốn vô lượng, bốn định vô sắc là không. Tự tánh của bốn tịnh lự ấy tức chẳng phải là tự tánh, tự tánh của bốn vô lượng, bốn định vô sắc ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tinh tấn Palamarda. Đối với tinh tấn Palamarda này, bốn tịnh lự chẳng thể nắm bắt được thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được, bốn vô lượng, bốn định vô sắc đều chẳng thể nắm bắt được thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có bốn tịnh lự V, V có thể nắm bắt được, huống là có cái tịnh và bất tịnh kia. Nếu người có khả năng tu tinh tấn như thế là tu tinh tấn Palamarda. Này Kiều Thi Ca! Thiện nam tử, thiện nữ nhân V, V, ấy nói những điều đó là tuyên thuyết tinh tấn Palamarda một cách chân chánh. Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân V, V, vì người phát tâm vô thường bồ đệ, tuyên thuyết tinh tấn Palamarda, thì nói thế này, thiện nam tử! Người nên tu tinh tấn Palamarda, chẳng nên quán tám giải thoát hoặc thường, hoặc vô thường, chẳng nên quán tám thắng xứ, chính định thứ đệ, mười biến xứ hoặc thường, hoặc vô thường. Vì sao? Vì tám giải thoát và tử tánh của tám giải thoát là không, tám thắng xứ, chính định thứ đệ, mười biến xứ và tử tánh của tám thắng xứ, chính định thứ đệ, mười biến xứ là không. Tử tánh của tám giải thoát ấy tức chẳng phải là tử tánh, tử tánh của tám thắng xứ, chính định thứ đệ, mười biến xứ ấy cũng chẳng phải là tử tánh. Nếu chẳng phải là tử tánh thì tức là tinh tấn Palamarda. Đối với tinh tấn Palamarda này, tám giải thoát chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được, tám thắng xứ, chính định thứ đệ, mười biến xứ đều chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó, còn không có tám giải thoát về, về, có thể nắm bắt được, huống là có cái thường và vô thường kia. Nếu người có khả năng tu tinh tấn như thế là tu tinh tấn Palamarda. Lại nói thế này, thiện nam tử. Người nên tu tinh tấn Palamarda, chẳng nên quán tám giải thoát hoặc lạc, hoặc khổ, chẳng nên quán tám thắng xứ, chính định thứ đệ, mười biến xứ hoặc lạc, hoặc khổ. Vì sao? Vì tám giải thoát và tử tánh của tám giải thoát là không, tám thắng xứ, chính định thứ đệ, mười biến xứ và tử tánh của tám thắng xứ, chính định thứ đệ, mười biến xứ là không. Tử tánh của tám giải thoát ấy tức chẳng phải là tử tánh, tử tánh của tám thắng xứ, chính định thứ đệ, mười biến xứ ấy cũng chẳng phải là tử tánh. Nếu chẳng phải là tử tánh thì tức là tinh tấn Palamarda. Đối với tinh tấn Palamarda này, tám giải thoát chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được, tám thắng xứ, chính định thứ đệ, mười biến xứ đều chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có tám giải thoát V. V có thể nắm bắt được, huống là có cái lạc và khổ kia. Nếu ngươi có khả năng tu tinh tấn như thế là tu tinh tấn Palamarda. Lại nói thế này, thiện nam tử. Ngươi nên tu tinh tấn Palamarda, chẳng nên quán tám giải thoát hoặc ngã, hoặc vô ngã, chẳng nên quán tám thắng xứ, chính định thứ đệ, mười biến xứ hoặc ngã, hoặc vô ngã. Vì sao? Vì tám giải thoát và tử tánh của tám giải thoát là không, tám thắng xứ, chính định thứ đệ, mười biến xứ và tử tánh của tám thắng xứ, chính định thứ đệ, mười biến xứ là không. Tử tánh của tám giải thoát ấy tức chẳng phải là tử tánh, tử tánh của tám thắng xứ, chính định thứ đệ, mười biến xứ ấy cũng chẳng phải là tử tánh. Nếu chẳng phải là tử tánh thì tức là tinh tấn Palamarda. Đối với tinh tấn Palamarda này, tám giải thoát chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được, tám thắng xứ, chính định thứ đệ, mười biến xứ đều chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có tám giải thoát V. V. có thể nắm bắt được, huống là có cái ngã và vô ngã kia. Nếu ngươi có khả năng tu tinh tấn như thế là tu tinh tấn Palamarda. Lại nói thế này, thiện nam tử. Ngươi nên tu tinh tấn Palamarda, chẳng nên quán tám giải thoát hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, chẳng nên quán tám thắng xứ, chính định thứ đệ, mười biến xứ hoặc tịnh, hoặc bất tịnh. Vì sao? Vì tám giải thoát và tự tánh của tám giải thoát là không, tám thắng xứ, chính định thứ đệ, mười biến xứ và tự tánh của tám thắng xứ, chính định thứ đệ, mười biến xứ là không. Tự tánh của tám giải thoát ấy tức chẳng phải là tự tánh, tự tánh của tám thắng xứ, chính định thứ đệ, mười biến xứ ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tinh tấn Palamarda. Đối với tinh tấn Palamarda này, tám giải thoát chẳng thể nắm bắt được thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được, tám thắng xứ, chính định thứ đệ, mười biến xứ đều chẳng thể nắm bắt được thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có tám giải thoát V. V, có thể nắm bắt được, húng là có cái tịnh và bất tịnh kia. Nếu người có khả năng tu tinh tấn như thế là tu tinh tấn Palamarda. Này Kiều Thi Ca! Thiện nam tử, thiện nữ nhân V, V, ấy nói những điều đó là tuyên thuyết tinh tấn Palamarda một cách chân chánh. Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân V, V, vì người phát tâm vô thường bồ đệ, tuyên thuyết tinh tấn Palamarda, thì nói thế này, thiện nam tử! Người nên tu tinh tấn Palamarda, chẳng nên quán bốn niệm trụ hoặc thường, hoặc vô thường, chẳng nên quán bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căng, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo hoặc thường, hoặc vô thường. Vì sao? Vì bốn niệm trụ và tử tánh của bốn niệm trụ là không, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căng, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo và tử tánh của bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo là không. Tử tánh của bốn niệm trụ ấy tức chẳng phải là tử tánh, tử tánh của bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo ấy cũng chẳng phải là tử tánh. Nếu chẳng phải là tử tánh thì tức là tinh tấn Palamarda. Đối với tinh tấn Palamarda này, bốn niệm trụ chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được, bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo đều chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có bốn niệm trụ V, V có thể nắm bắt được, húng là có cái thường và vô thường kia. Nếu người có khả năng tu tinh tấn như thế là tu tinh tấn Palamarda. Lại nói thế này, thiện nam tử. Người nên tu tinh tấn Palamarda chẳng nên quán bốn niệm trụ hoặc lạc, hoặc khổ, chẳng nên quán bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căng, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo hoặc lạc, hoặc khổ. Vì sao? Vì bốn niệm trụ và tử tánh của bốn niệm trụ là không, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căng, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo và tử tánh của bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo là không. Tử tánh của bốn niệm trụ ấy tức chẳng phải là tử tánh, tử tánh của bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo ấy cũng chẳng phải là tử tánh. Nếu chẳng phải là tử tánh thì tức là tinh tấn Palamarda. Đối với tinh tấn Palamarda này, bốn niệm trụ chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được, bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo đều chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có bốn niệm trụ V. V, có thể nắm bắt được, huống là có cái lạc và khổ kia. Nếu người có khả năng tu tinh tấn như thế là tu tinh tấn Palamarda. Lại nói thế này, thiện nam tử. Người nên tu tinh tấn Palamarda chẳng nên quán bốn niệm trụ hoặc ngã, hoặc vô ngã, chẳng nên quán bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căng, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo hoặc ngã, hoặc vô ngã. Vì sao? Vì bốn niệm trụ và tử tánh của bốn niệm trụ là không, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căng, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo và tử tánh của bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo là không. Tử tánh của bốn niệm trụ ấy tức chẳng phải là tử tánh, tử tánh của bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo ấy cũng chẳng phải là tử tánh. Nếu chẳng phải là tử tánh thì tức là tinh tấn Palamarda. Đối với tinh tấn Palamarda này, bốn niệm trụ chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được, bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo đều chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có bốn niệm trụ V. V. có thể nắm bắt được, huống là có cái ngã và vô ngã kia. Nếu người có khả năng tu tinh tấn như thế là tu tinh tấn Palamarda. Lại nói thế này, thiện nam tử. Người nên tu tinh tấn Palamarda chẳng nên quán bốn niệm trụ hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, chẳng nên quán bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căng, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo hoặc tịnh, hoặc bất tịnh. Vì sao? Vì bốn niệm trụ và tử tánh của bốn niệm trụ là không, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căng, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo và tử tánh của bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo là không. Tử tánh của bốn niệm trụ ấy tức chẳng phải là tử tánh, tử tánh của bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo ấy cũng chẳng phải là tử tánh. Nếu chẳng phải là tử tánh thì tức là tinh tấn Palamarda. Đối với tinh tấn Palamarda này, bốn niệm trụ chẳng thể nắm bắt được thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được, bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo đều chẳng thể nắm bắt được thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có bốn niệm trụ V. V, có thể nắm bắt được, húng là có cái tịnh và bất tịnh kia. Nếu người có khả năng tu tinh tấn như thế là tu tinh tấn Palamarda. Này Kiều Thi Ca, thiện nam tử, thiện nữ nhân V. V, ấy nói những điều đó là tuyên thuyết tinh tấn Palamarda một cách chân chánh. Lại nữa, Kiều Thi Ca, nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân V. V, vì người phát tâm vô thường bồ đệ, tuyên thuyết tinh tấn Palamarda, thì nói thế này, thiện nam tử. Người nên tu tinh tấn Palamarda, chẳng nên quán pháp môn giải thoát không hoặc thường, hoặc vô thường, chẳng nên quán pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện hoặc thường, hoặc vô thường. Vì sao? Vì pháp môn giải thoát không và tự tánh của pháp môn giải thoát không là không, pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện và tự tánh của pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện là không. Tự tánh của pháp môn giải thoát không ấy tức chẳng phải là tự tánh, tự tánh của pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tinh tấn Palamarda. Đối với tinh tấn Palamarda này, pháp môn giải thoát không chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được, pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện đều chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có pháp môn giải thoát không về, về có thể nắm bắt được, huống là có cái thường và vô thường kia. Nếu ngươi có khả năng tu tinh tấn như thế là tu tinh tấn Palamarda. Lại nói thế này, thiện nam tử. Ngươi nên tu tinh tấn Palamarda, chẳng nên quán pháp môn giải thoát không hoặc lạc, hoặc khổ, chẳng nên quán pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện hoặc lạc, hoặc khổ. Vì sao? Vì pháp môn giải thoát không và tự tánh của pháp môn giải thoát không là không, pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện và tự tánh của pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện là không. Tự tánh của pháp môn giải thoát không ấy tức chẳng phải là tự tánh, tự tánh của pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tinh tấn Palamarda. Đối với tinh tấn Palamarda này, pháp môn giải thoát không chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được, pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện đều chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có pháp môn giải thoát không về. Về, có thể nắm bắt được, huống là có cái lạc và khổ kia. Nếu người có khả năng tu tinh tấn như thế là tu tinh tấn Palamarda. Lại nói thế này, thiện nam tử. Người nên tu tinh tấn Palamarda, chẳng nên quán pháp môn giải thoát không hoặc ngã, hoặc vô ngã, chẳng nên quán pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện hoặc ngã, hoặc vô ngã. Vì sao? Vì pháp môn giải thoát không và tự tánh của pháp môn giải thoát không là không, pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện và tự tánh của pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện là không. Tự tánh của pháp môn giải thoát không ấy tức chẳng phải là tự tánh, tự tánh của pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tinh tấn Palamarda. Đối với tinh tấn Palamarda này, pháp môn giải thoát không chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được, pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện đều chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có pháp môn giải thoát không về. Về, có thể nắm bắt được, huống là có cái ngã và vô ngã kia. Nếu người có khả năng tu tinh tấn như thế là tu tinh tấn Palamarda. Lại nói thế này, thiện nam tử. Người nên tu tinh tấn Palamarda chẳng nên quán pháp môn giải thoát không hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, chẳng nên quán pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện hoặc tịnh, hoặc bất tịnh. Vì sao? Vì pháp môn giải thoát không và tự tánh của pháp môn giải thoát không là không, pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện và tự tánh của pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện là không. Tự tánh của pháp môn giải thoát không ấy tức chẳng phải là tự tánh, tự tánh của pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tinh tấn Palamarda. Đối với tinh tấn Palamarda này, pháp môn giải thoát không chẳng thể nắm bắt được thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được, pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện đều chẳng thể nắm bắt được thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có pháp môn giải thoát không về. V. Có thể nắm bắt được, huống là có cái tịnh và bất tịnh kia. Nếu người có khả năng tu tinh tấn như thế là tu tinh tấn Palamarda. Đây Kiều Thi Ca. Thiện nam tử, thiện nữ nhân V. V. ấy nói những điều đó là tuyên thuyết tinh tấn Palamarda một cách chân chánh. Lại nữa, Kiều Thi Ca. Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân V. V. vì người phát tâm vô thường bồ đệ, tuyên thuyết tinh tấn Palamarda thì nói thế này, thiện nam tử. Người nên tu tinh tấn Palamarda chẳng nên quán năm loại mắt hoặc thường, hoặc vô thường, chẳng nên quán sáu phép thần thông hoặc thường, hoặc vô thường. Vì sao? Vì năm loại mắt và tự tánh của năm loại mắt là không, sáu phép thần thông và tự tánh của sáu phép thần thông là không. Tự tánh của năm loại mắt ấy tức chẳng phải là tự tánh, tự tánh của sáu phép thần thông ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tinh tấn Palamarda. Đối với tinh tấn Palamarda này, năm loại mắt chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được, sáu phép thần thông đều chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có năm loại mắt V. V, có thể nắm bắt được, cũng là có cái thường và vô thường kia. Nếu ngươi có khả năng tu tinh tấn như thế là tu tinh tấn Palamarda. Lại nói thế này, thiện nam tử. Ngươi nên tu tinh tấn Palamarda, chẳng nên quán năm loại mắt hoặc lạc, hoặc khổ, chẳng nên quán sáu phép thần thông hoặc lạc, hoặc khổ. Vì sao? Vì năm loại mắt và tử tánh của năm loại mắt là không, sáu phép thần thông và tử tánh của sáu phép thần thông là không. Tử tánh của năm loại mắt ấy tức chẳng phải là tử tánh, tử tánh của sáu phép thần thông ấy cũng chẳng phải là tử tánh. Nếu chẳng phải là tử tánh thì tức là tinh tấn Palamarda. Đối với tinh tấn Palamarda này, năm loại mắt chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được, sáu phép thần thông đều chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có năm loại mắt V, V có thể nắm bắt được, huống là có cái lạc và khổ kia. Nếu ngươi có khả năng tu tinh tấn như thế là tu tinh tấn Palamarda. Lại nói thế này thì Nam tử Ngươi nên tu tinh tấn Palamarda, chẳng nên quán năm loại mắt hoặc ngã, hoặc vô ngã, chẳng nên quán sáu phép thần thông hoặc ngã, hoặc vô ngã. Vì sao? Vì năm loại mắt và tử tánh của năm loại mắt là không, sáu phép thần thông và tử tánh của sáu phép thần thông là không. Tử tánh của năm loại mắt ấy tức chẳng phải là tử tánh, tử tánh của sáu phép thần thông ấy cũng chẳng phải là tử tánh. Nếu chẳng phải là tử tánh thì tức là tinh tấn Palamarda. Đối với tinh tấn Palamarda này, năm loại mắt chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được, sáu phép thần thông đều chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có năm loại mắt V, V có thể nắm bắt được, huống là có cái ngã và vô ngã kia. Nếu người có khả năng tu tinh tấn như thế là tu tinh tấn Palamarda. Lại nói thế này, thiện nam tử. Người nên tu tinh tấn Palamarda, chẳng nên quán năm loại mắt hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, chẳng nên quán sáu phép thần thông hoặc tịnh, hoặc bất tịnh. Vì sao? Vì năm loại mắt và tử tánh của năm loại mắt là không, sáu phép thần thông và tử tánh của sáu phép thần thông là không. Tử tánh của năm loại mắt ấy tức chẳng phải là tử tánh, tử tánh của sáu phép thần thông ấy cũng chẳng phải là tử tánh. Nếu chẳng phải là tử tánh thì tức là tinh tấn Palamarda. Đối với tinh tấn Palamarda này, năm loại mắt chẳng thể nắm bắt được thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được, sáu phép thần thông đều chẳng thể nắm bắt được thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có năm loại mắt V, V có thể nắm bắt được, huống là có cái tịnh và bất tịnh kia. Nếu người có khả năng tu tinh tấn như thế là tu tinh tấn Palamarda. Này Kiều Thi Ca! Thiện nam tử, thiện nữ nhân V, V ấy nói những điều đó là tuyên thuyết tinh tấn Palamarda một cách chân chánh. Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân V, V vì người phát tâm vô thường bồ đệ, tuyên thuyết tinh tấn Palamarda thì nói thế này, thiện nam tử. Người nên tu tinh tấn Palamarda chẳng nên quán mười lực của Phật hoặc thường, hoặc vô thường, chẳng nên quán bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xã, mười tám pháp Phật bất cộng hoặc thường, hoặc vô thường. Vì sao? Vì mười lực của Phật và tử tánh của mười lực của Phật là không, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xã, mười tám pháp Phật bất cộng và tử tánh của bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng là không. Tử tánh của mười lực của Phật ấy tức chẳng phải là tử tánh, tử tánh của bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng ấy cũng chẳng phải là tử tánh. Nếu chẳng phải là tử tánh thì tức là tinh tấn Palamuddha. Đối với tinh tấn Palamuddha này, mười lực của Phật chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được, bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng đều chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có mười lực của Phật V, V có thể nắm bắt được, huống là có cái thường và vô thường kia. Nếu ngươi có khả năng tu tinh tấn như thế là tu tinh tấn Palamuddha. Lại nói thế này, thiện nam tử. Ngươi nên tu tinh tấn Palamuddha, chẳng nên quán mười lực của Phật hoặc lạc, hoặc khổ, chẳng nên quán bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại tử, đại bi, đại hỷ, đại xã, mười tám pháp Phật bất cộng hoặc lạc, hoặc khổ. Vì sao? Vì mười lực của Phật và tử tánh của mười lực của Phật là không, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại tử, đại bi, đại hỷ, đại xã, mười tám pháp Phật bất cộng và tử tánh của bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng là không. Tử tánh của mười lực của Phật ấy tức chẳng phải là tử tánh, tử tánh của bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng ấy cũng chẳng phải là tử tánh. Nếu chẳng phải là tử tánh thì tức là tinh tấn Palamuddha. Đối với tinh tấn Palamuddha này, mười lực của Phật chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được, bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng đều chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó, còn không có mười lực của Phật V.V. có thể nắm bắt được, huống là có cái lạc và khổ kia. Nếu người có khả năng tu tinh tấn như thế là tu tinh tấn Palamuddha. Lại nói thế này, Thiện Nam Tử. Người nên tu tinh tấn Palamuddha chẳng nên quán mười lực của Phật hoặc ngã, hoặc vô ngã, chẳng nên quán bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xã, mười tám pháp Phật bất cộng hoặc ngã, hoặc vô ngã. Vì sao? Vì mười lực của Phật và tự tánh của mười lực của Phật là không, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xã, mười tám pháp Phật bất cộng và tự tánh của bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng là không. Tự tánh của mười lực của Phật ấy tức chẳng phải là tự tánh, tự tánh của bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tinh tấn Palamuddha. Đối với tinh tấn Palamuddha này, mười lực của Phật chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được, bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng đều chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có mười lực của Phật V, V có thể nắm bắt được, huống là có cái ngã và vô ngã kia. Nếu người có khả năng tu tinh tấn như thế là tu tinh tấn Palamuddha. Lại nói thế này, thiện nam tử. Người nên tu tinh tấn Palamuddha chẳng nên quán mười lực của Phật hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, chẳng nên quán bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xã, mười tám pháp Phật bất cộng hoặc tịnh, hoặc bất tịnh. Vì sao? Vì mười lực của Phật và tự tánh của mười lực của Phật là không, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xã, mười tám pháp Phật bất cộng và tự tánh của bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng là không. Tự tánh của mười lực của Phật ấy tức chẳng phải là tự tánh, tự tánh của bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tinh tấn ba la mật đa. Đối với tinh tấn ba la mật đa này, mười lực của Phật chẳng thể nắm bắt được thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được, bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng đều chẳng thể nắm bắt được thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có mười lực của Phật V.V. có thể nắm bắt được, huống là có cái tịnh và bất tịnh kia. Nếu người có khả năng tu tinh tấn như thế là tu tinh tấn ba la mật đa. Này Kiều Thi Ca! Thiện nam tử, thiện nữ nhân V.V. ấy nói những điều đó là tuyên thuyết tinh tấn ba la mật đa một cách chân chánh. Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân V.V. vì người Pháp tâm vô thường bồ đệ, tuyên thuyết tinh tấn ba la mật đa, thì nói thế này, thiện nam tử! Người nên tu tinh tấn ba la mật đa, chẳng nên quán Pháp không quên mất hoặc thường, hoặc vô thường, chẳng nên quán tánh luôn luôn xã hoặc thường, hoặc vô thường. Vì sao? Vì Pháp không quên mất và tự tánh của Pháp không quên mất là không, tánh luôn luôn xã và tự tánh của tánh luôn luôn xã là không. Tự tánh của Pháp không quên mất ấy tức chẳng phải là tự tánh, tự tánh của tánh luôn luôn xã ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tinh tấn ba la mật đa. Đối với tinh tấn ba la mật đa này, Pháp không quên mất chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được, tánh luôn luôn xã chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có Pháp không quên mất về. Về, có thể nắm bắt được, huống là có cái thường và vô thường kia. Nếu người có khả năng tu tinh tấn như thế là tu tinh tấn ba la mật đa. Lại nói thế này, thiện nam tử. Người nên tu tinh tấn ba la mật đa, chẳng nên quán Pháp không quên mất hoặc lạc, hoặc khổ, chẳng nên quán tánh luôn luôn xã hoặc lạc, hoặc khổ. Vì sao? Vì Pháp không quên mất và tự tánh của Pháp không quên mất là không, tánh luôn luôn xã và tự tánh của tánh luôn luôn xã là không. Tự tánh của Pháp không quên mất ấy tức chẳng phải là tự tánh, tự tánh của tánh luôn luôn xã ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tinh tấn ba la mật đa. Đối với tinh tấn ba la mật đa này, Pháp không quên mất chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được, tánh luôn luôn xã chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó, còn không có Pháp không quên mất về, về, có thể nắm bắt được, huống là có cái lạc và khổ kia. Nếu người có khả năng tu tinh tấn như thế là tu tinh tấn ba la mật đa. Lại nói thế này, thiện nam tử. Người nên tu tinh tấn ba la mật đa, chẳng nên quán Pháp không quên mất hoặc ngã, hoặc vô ngã, chẳng nên quán tánh luôn luôn xã hoặc ngã, hoặc vô ngã. Vì sao? Vì Pháp không quên mất và tự tánh của Pháp không quên mất là không, tánh luôn luôn xã và tự tánh của tánh luôn luôn xã là không. Tự tánh của Pháp không quên mất ấy tức chẳng phải là tự tánh, tự tánh của tánh luôn luôn xã ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tinh tấn ba la mật đa. Đối với tinh tấn ba la mật đa này, Pháp không quên mất chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được, tánh luôn luôn xã chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có Pháp không quên mất về, về, có thể nắm bắt được, huống là có cái ngã và vô ngã kia. Nếu người có khả năng tu tinh tấn như thế là tu tinh tấn ba la mật đa. Lại nói thế này, thiện nam tử. Người nên tu tinh tấn ba la mật đa, chẳng nên quán Pháp không quên mất hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, chẳng nên quán tánh luôn luôn xã hoặc tịnh, hoặc bất tịnh. Vì sao? Vì Pháp không quên mất và tự tánh của Pháp không quên mất là không, tánh luôn luôn xã và tự tánh của tánh luôn luôn xã là không. Tự tánh của Pháp không quên mất ấy tức chẳng phải là tự tánh, tự tánh của tánh luôn luôn xã ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tinh tấn ba la mật đa. Đối với tinh tấn ba la mật đa này, Pháp không quên mất chẳng thể nắm bắt được thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được, tánh luôn luôn xã chẳng thể nắm bắt được thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó, còn không có Pháp không quên mất về, về, có thể nắm bắt được, huống là có cái tịnh và bất tịnh kia. Nếu người có khả năng tu tinh tấn như thế là tu tinh tấn ba la mật đa. Này Tiều Thi Ca, thiện nam tử, thiện nữ nhân về, về, ấy nói những điều đó là tuyên thuyết tinh tấn ba la mật đa một cách chân chánh.