Details
Nothing to say, yet
Nothing to say, yet
Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa Tập 7 Quyển 156 ít ít ít phẩm so sánh Công Đức 54 Lại nữa, Kiều Thi Ca Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v. vì người phát tâm vô thường bồ đệ, tuyên thuyết an nhẫn Ba La Mật Đa, thì nói thế này, thiện nam tử Người nên tu an nhẫn Ba La Mật Đa, chẳng nên quán nhãn giới hoặc thường, hoặc vô thường, chẳng nên quán sát giới, nhãn thức giới và nhãn xuất cùng các thọ do nhãn xuất làm duyên sanh ra hoặc thường, hoặc vô thường. Vì sao? Vì nhãn giới và tự tánh của nhãn giới là không, sát giới, nhãn thức giới và nhãn xuất cùng các thọ do nhãn xuất làm duyên sanh ra và tự tánh của sát giới cho đến các thọ do nhãn xuất làm duyên sanh ra là không. Tự tánh của nhãn giới ấy tức chẳng phải là tự tánh, tự tánh của sát giới cho đến các thọ do nhãn xuất làm duyên sanh ra ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là an nhẫn Ba La Mật Đa. Đối với an nhẫn Ba La Mật Đa này, nhãn giới chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được, sát giới cho đến các thọ do nhãn xuất làm duyên sanh ra đều chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có nhãn giới V, V có thể nắm bắt được, huống là có cái thường và vô thường kia. Nếu người có khả năng tu an nhẫn như thế là tu an nhẫn Ba La Mật Đa. Lại nói thế này, thiện nam tử. Người nên tu an nhẫn Ba La Mật Đa chẳng nên quán nhãn giới hoặc lạc, hoặc khổ, chẳng nên quán sát giới, nhãn thức giới và nhãn xuất cùng các thọ do nhãn xuất làm duyên sanh ra hoặc lạc, hoặc khổ. Vì sao? Vì nhãn giới và tự tánh của nhãn giới là không, sát giới, nhãn thức giới và nhãn xuất cùng các thọ do nhãn xuất làm duyên sanh ra và tự tánh của sát giới cho đến các thọ do nhãn xuất làm duyên sanh ra là không. Tự tánh của nhãn giới ấy tức chẳng phải là tự tánh, tự tánh của sát giới cho đến các thọ do nhãn xuất làm duyên sanh ra ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là an nhẫn Ba La Mật Đa. Đối với an nhẫn Ba La Mật Đa này, nhãn giới chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được, sát giới cho đến các thọ do nhãn xuất làm duyên sanh ra đều chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có nhãn giới V. V có thể nắm bắt được, huống là có cái lạc và khổ kia. Nếu người có khả năng tu an nhẫn như thế là tu an nhẫn Ba La Mật Đa. Lại nói thế này, thiện nam tử. Người nên tu an nhẫn Ba La Mật Đa, chẳng nên quán nhãn giới hoặc ngã, hoặc vô ngã, chẳng nên quán sát giới, nhãn thức giới và nhãn xuất cùng các thọ do nhãn xuất làm duyên sanh ra hoặc ngã, hoặc vô ngã. Vì sao? Vì nhãn giới và tự tánh của nhãn giới là không, sát giới, nhãn thức giới và nhãn xuất cùng các thọ do nhãn xuất làm duyên sanh ra và tự tánh của sát giới cho đến các thọ do nhãn xuất làm duyên sanh ra là không. Tự tánh của nhãn giới ấy tức chẳng phải là tự tánh, tự tánh của sát giới cho đến các thọ do nhãn xuất làm duyên sanh ra ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là an nhẫn Ba La Mật Đa. Đối với an nhẫn Ba La Mật Đa này, nhãn giới chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được, sát giới cho đến các thọ do nhãn xuất làm duyên sanh ra đều chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có nhãn giới V. V, có thể nắm bắt được, huống là có cái ngã và vô ngã kia. Nếu người có khả năng tu an nhẫn như thế là tu an nhẫn Ba La Mật Đa. Lại nói thế này, thiện nam tử. Người nên tu an nhẫn Ba La Mật Đa chẳng nên quán nhãn giới hoặc tình, hoặc bất tình, chẳng nên quán sát giới, nhãn thức giới và nhãn xuất cùng các thọ do nhãn xuất làm duyên sanh ra hoặc tình, hoặc bất tình. Vì sao? Vì nhãn giới và tự tánh của nhãn giới là không, sát giới, nhãn thức giới và nhãn xuất cùng các thọ do nhãn xuất làm duyên sanh ra và tự tánh của sát giới cho đến các thọ do nhãn xuất làm duyên sanh ra là không. Tự tánh của nhãn giới ấy tức chẳng phải là tự tánh, tự tánh của sát giới cho đến các thọ do nhãn xuất làm duyên sanh ra ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là an nhẫn Ba La Mật Đa. Đối với an nhẫn Ba La Mật Đa này, nhãn giới chẳng thể nắm bắt được thì cái tình, bất tình kia cũng chẳng thể nắm bắt được, sát giới cho đến các thọ do nhãn xuất làm duyên sanh ra đều chẳng thể nắm bắt được thì cái tình, bất tình kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có nhãn giới V. V, có thể nắm bắt được, cũng là có cái tình và bất tình kia. Nếu người có khả năng tu an nhẫn như thế là tu an nhẫn Ba La Mật Đa. Đây Kiều Thi Ca. Thiện nam tử, thiện nữ nhân V, V, ấy nói những điều đó là tuyên thuyết an nhẫn Ba La Mật Đa một cách chân chánh. Lại nữa, Kiều Thi Ca. Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân V, V, vì người phát tâm vô thường bồ đệ, tuyên thuyết an nhẫn Ba La Mật Đa, thì nói thế này, thiện nam tử. Người nên tu an nhẫn Ba La Mật Đa, chẳng nên quán nhãn giới hoặc thường, hoặc vô thường, chẳng nên quán thanh giới, nhãn xuất giới và nhãn xuất cùng các thọ do nhãn xuất làm duyên sanh ra hoặc thường, hoặc vô thường. Vì sao? Vì nhãn giới và tử thanh của nhãn giới là không, thanh giới, nhãn xuất giới và nhãn xuất cùng các thọ do nhãn xuất làm duyên sanh ra và tử thanh của thanh giới cho đến các thọ do nhãn xuất làm duyên sanh ra là không. Tử thanh của nhãn giới ấy tức chẳng phải là tử thanh, tử thanh của thanh giới cho đến các thọ do nhãn xuất làm duyên sanh ra ấy cũng chẳng phải là tử thanh. Nếu chẳng phải là tử thanh thì tức là an nhẫn Ba La Mật Đa. Đối với an nhẫn Ba La Mật Đa này, nhãn giới chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được, thanh giới cho đến các thọ do nhãn xuất làm duyên sanh ra đều chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có nhãn giới V, V có thể nắm bắt được, huống là có cái thường và vô thường kia. Nếu người có khả năng tu an nhẫn như thế là tu an nhẫn Ba La Mật Đa. Lại nói thế này, thiện nam tử. Người nên tu an nhẫn Ba La Mật Đa, chẳng nên quán nhĩ giới hoặc lạc, hoặc khổ, chẳng nên quán thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xuất cùng các thọ do nhĩ xuất làm duyên sanh ra hoặc lạc, hoặc khổ. Vì sao? Vì nhĩ giới và tử tánh của nhĩ giới là không, thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xuất cùng các thọ do nhĩ xuất làm duyên sanh ra và tử tánh của thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xuất làm duyên sanh ra là không. Tử tánh của nhĩ giới ấy tức chẳng phải là tử tánh, tử tánh của thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xuất làm duyên sanh ra ấy cũng chẳng phải là tử tánh. Nếu chẳng phải là tử tánh thì tức là an nhẫn Ba La Mật Đa. Đối với an nhẫn Ba La Mật Đa này, nhĩ giới chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được, thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xuất làm duyên sanh ra đều chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có nhĩ giới V. V có thể nắm bắt được, huống là có cái lạc và khổ kia. Nếu ngươi có khả năng tu an nhẫn như thế là tu an nhẫn Ba La Mật Đa. Lại nói thế này, thiện nam tử. Ngươi nên tu an nhẫn Ba La Mật Đa, chẳng nên quán nhĩ giới hoặc ngã, hoặc vô ngã, chẳng nên quán thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xuất cùng các thọ do nhĩ xuất làm duyên sanh ra hoặc ngã, hoặc vô ngã. Vì sao? Vì nhĩ giới và tử tánh của nhĩ giới là không, thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xuất cùng các thọ do nhĩ xuất làm duyên sanh ra và tử tánh của thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xuất làm duyên sanh ra là không. Tử tánh của nhĩ giới ấy tức chẳng phải là tử tánh, tử tánh của thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xuất làm duyên sanh ra ấy cũng chẳng phải là tử tánh. Nếu chẳng phải là tử tánh thì tức là an nhẫn Ba La Mật Đa. Đối với an nhẫn Ba La Mật Đa này, nhĩ giới chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được, thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xuất làm duyên sanh ra đều chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có nhĩ giới V. V, có thể nắm bắt được, huống là có cái ngã và vô ngã kia. Nếu người có khả năng tu an nhẫn như thế là tu an nhẫn Ba La Mật Đa. Lại nói thế này, thiện nam tử. Người nên tu an nhẫn Ba La Mật Đa, chẳng nên quán nhĩ giới hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, chẳng nên quán thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xuất cùng các thọ do nhĩ xuất làm duyên sanh ra hoặc tịnh, hoặc bất tịnh. Vì sao? Vì nhĩ giới và tử tánh của nhĩ giới là không, thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xuất cùng các thọ do nhĩ xuất làm duyên sanh ra và tử tánh của thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xuất làm duyên sanh ra là không. Tử tánh của nhĩ giới ấy tức chẳng phải là tử tánh, tử tánh của thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xuất làm duyên sanh ra ấy cũng chẳng phải là tử tánh. Nếu chẳng phải là tử tánh thì tức là an nhẫn Ba La Mật Đa. Đối với an nhẫn Ba La Mật Đa này, nhĩ giới chẳng thể nắm bắt được thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được, thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xuất làm duyên sanh ra đều chẳng thể nắm bắt được thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có nhĩ giới V. V có thể nắm bắt được, huống là có cái tịnh và bất tịnh kia. Nếu người có khả năng tu an nhẫn như thế là tu an nhẫn Ba La Mật Đa. Đây Kiều Thi Ca. Thiện nam tử, thiện nữ nhân V, V ấy nói những điều đó là tuyên thuyết an nhẫn Ba La Mật Đa một cách chân chánh. Lại nữa, Kiều Thi Ca. Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân V, V vì người phát tâm vô thường bồ đệ, tuyên thuyết an nhẫn Ba La Mật Đa thì nói thế này, thiện nam tử. Người nên tu an nhẫn Ba La Mật Đa chẳng nên quán tỷ giới hoặc thường, hoặc vô thường, chẳng nên quán hương giới, tỷ thức giới và tỷ xuất cùng các thọ do tỷ xuất làm duyên sanh ra hoặc thường, hoặc vô thường. Vì sao? Vì tỷ giới và tỷ tánh của tỷ giới là không, hương giới, tỷ thức giới và tỷ xuất cùng các thọ do tỷ xuất làm duyên sanh ra và tỷ tánh của hương giới cho đến các thọ do tỷ xuất làm duyên sanh ra là không. Tỷ tánh của tỷ giới ấy tức chẳng phải là tỷ tánh, tỷ tánh của hương giới cho đến các thọ do tỷ xuất làm duyên sanh ra ấy cũng chẳng phải là tỷ tánh. Nếu chẳng phải là tỷ tánh thì tức là an nhẫn Ba La Mật Đa. Đối với an nhẫn Ba La Mật Đa này, tỷ giới chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được, hương giới cho đến các thọ do tỷ xuất làm duyên sanh ra đều chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có tỷ giới V, V có thể nắm bắt được, huống là có cái thường và vô thường kia. Nếu người có khả năng tu an nhẫn như thế là tu an nhẫn Ba La Mật Đa. Lại nói thế này, thiện nam tử. Người nên tu an nhẫn Ba La Mật Đa, chẳng nên quán tỷ giới hoặc lạc, hoặc khổ, chẳng nên quán hương giới, tỷ thức giới và tỷ xuất cùng các thọ do tỷ xuất làm duyên sanh ra hoặc lạc, hoặc khổ. Vì sao? Vì tỷ giới và tỷ tánh của tỷ giới là không, hương giới, tỷ thức giới và tỷ xuất cùng các thọ do tỷ xuất làm duyên sanh ra và tỷ tánh của hương giới cho đến các thọ do tỷ xuất làm duyên sanh ra là không. Tỷ tánh của tỷ giới ấy tức chẳng phải là tỷ tánh, tỷ tánh của hương giới cho đến các thọ do tỷ xuất làm duyên sanh ra ấy cũng chẳng phải là tỷ tánh. Nếu chẳng phải là tỷ tánh thì tức là an nhẫn Ba La Mật Đa. Đối với an nhẫn Ba La Mật Đa này, tỷ giới chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được, hương giới cho đến các thọ do tỷ xuất làm duyên sanh ra đều chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có tỷ giới V. V có thể nắm bắt được, huống là có cái lạc và khổ kia. Nếu người có khả năng tu an nhẫn như thế là tu an nhẫn Ba La Mật Đa. Lại nói thế này, thiện nam tử. Người nên tu an nhẫn Ba La Mật Đa chẳng nên quán tỷ giới hoặc ngã, hoặc vô ngã, chẳng nên quán hương giới, tỷ thức giới và tỷ xuất cùng các thọ do tỷ xuất làm duyên sanh ra hoặc ngã, hoặc vô ngã. Vì sao? Vì tỷ giới và tỷ tánh của tỷ giới là không, hương giới, tỷ thức giới và tỷ xuất cùng các thọ do tỷ xuất làm duyên sanh ra và tỷ tánh của hương giới cho đến các thọ do tỷ xuất làm duyên sanh ra là không. Tỷ tánh của tỷ giới ấy tức chẳng phải là tỷ tánh, tỷ tánh của hương giới cho đến các thọ do tỷ xuất làm duyên sanh ra ấy cũng chẳng phải là tỷ tánh. Nếu chẳng phải là tỷ tánh thì tức là an nhẫn Ba La Mật Đa. Đối với an nhẫn Ba La Mật Đa này, tỷ giới chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được, hương giới cho đến các thọ do tỷ xuất làm duyên sanh ra đều chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có tỷ giới V. V, có thể nắm bắt được, huống là có cái ngã và vô ngã kia. Nếu người có khả năng tu an nhẫn như thế là tu an nhẫn Ba La Mật Đa. Lại nói thế này, thiện nam tử. Người nên tu an nhẫn Ba La Mật Đa, chẳng nên quán tỷ giới hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, chẳng nên quán hương giới, tỷ thức giới và tỷ xuất cùng các thọ do tỷ xuất làm duyên sanh ra hoặc tịnh, hoặc bất tịnh. Vì sao? Vì tỷ giới và tự tánh của tỷ giới là không, hương giới, tỷ thức giới và tỷ xuất cùng các thọ do tỷ xuất làm duyên sanh ra và tỷ tánh của hương giới cho đến các thọ do tỷ xuất làm duyên sanh ra là không. Tự tánh của tỷ giới ấy tức chẳng phải là tự tánh, tự tánh của hương giới cho đến các thọ do tỷ xuất làm duyên sanh ra ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là an nhẫn Ba La Mật Đa. Đối với an nhẫn Ba La Mật Đa này, tỷ giới chẳng thể nắm bắt được thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được, hương giới cho đến các thọ do tỷ xuất làm duyên sanh ra đều chẳng thể nắm bắt được thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có tỷ giới V. V có thể nắm bắt được, huống là có cái tịnh và bất tịnh kia. Nếu người có khả năng tu an nhẫn như thế là tu an nhẫn Ba La Mật Đa. Này Kiều Thi Ca! Thiện nam tử, thiện nữ nhân V, V, ấy nói những điều đó là tuyên thuyết an nhẫn Ba La Mật Đa một cách chân chánh. Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân V, V, vì người phát tâm vô thường bồ đệ, tuyên thuyết an nhẫn Ba La Mật Đa, thì nói thế này, thiện nam tử! Người nên tu an nhẫn Ba La Mật Đa, chẳng nên quán thiệt giới hoặc thường, hoặc vô thường, chẳng nên quán vị giới, thiệt thức giới và thiệt xuất cùng các thọ do thiệt xuất làm duyên sanh ra hoặc thường, hoặc vô thường. Vì sao? Vì thiệt giới và tử tánh của thiệt giới là không, vị giới, thiệt thức giới và thiệt xuất cùng các thọ do thiệt xuất làm duyên sanh ra và tử tánh của vị giới cho đến các thọ do thiệt xuất làm duyên sanh ra là không. Tử tánh của thiệt giới ấy tức chẳng phải là tử tánh, tử tánh của vị giới cho đến các thọ do thiệt xuất làm duyên sanh ra ấy cũng chẳng phải là tử tánh. Nếu chẳng phải là tử tánh thì tức là an nhẫn Ba La Mật Đa. Đối với an nhẫn Ba La Mật Đa này, thiệt giới chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được, vị giới cho đến các thọ do thiệt xuất làm duyên sanh ra đều chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó, còn không có thiệt giới V, V, có thể nắm bắt được, huống là có cái thường và vô thường kia. Nếu người có khả năng tu an nhẫn như thế là tu an nhẫn Ba La Mật Đa. Lại nói thế này, thiện nam tử. Người nên tu an nhẫn Ba La Mật Đa, chẳng nên quán thiệt giới hoặc lạc, hoặc khổ, chẳng nên quán vị giới, thiệt thức giới và thiệt xuất cùng các thọ do thiệt xuất làm duyên sanh ra hoặc lạc, hoặc khổ. Vì sao? Vì thiệt giới và tử tánh của thiệt giới là không, vị giới, thiệt thức giới và thiệt xuất cùng các thọ do thiệt xuất làm duyên sanh ra và tử tánh của vị giới cho đến các thọ do thiệt xuất làm duyên sanh ra là không. Tử tánh của thiệt giới ấy tức chẳng phải là tử tánh, tử tánh của vị giới cho đến các thọ do thiệt xuất làm duyên sanh ra ấy cũng chẳng phải là tử tánh. Nếu chẳng phải là tử tánh thì tức là an nhẫn Ba La Mật Đa. Đối với an nhẫn Ba La Mật Đa này, thiệt giới chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được, vị giới cho đến các thọ do thiệt xuất làm duyên sanh ra đều chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có thiệt giới V. V có thể nắm bắt được, huống là có cái lạc và khổ kia. Nếu người có khả năng tu an nhẫn như thế là tu an nhẫn Ba La Mật Đa. Lại nói thế này, thiện nam tử. Người nên tu an nhẫn Ba La Mật Đa, chẳng nên quán thiệt giới hoặc ngã, hoặc vô ngã, chẳng nên quán vị giới, thiệt thức giới và thiệt xuất cùng các thọ do thiệt xuất làm duyên sanh ra hoặc ngã, hoặc vô ngã. Vì sao? Vì thiệt giới và tử tánh của thiệt giới là không, vị giới, thiệt thức giới và thiệt xuất cùng các thọ do thiệt xuất làm duyên sanh ra và tử tánh của vị giới cho đến các thọ do thiệt xuất làm duyên sanh ra là không. Tử tánh của thiệt giới ấy tức chẳng phải là tử tánh, tử tánh của vị giới cho đến các thọ do thiệt xuất làm duyên sanh ra ấy cũng chẳng phải là tử tánh. Nếu chẳng phải là tử tánh thì tức là an nhẫn Ba La Mật Đa. Đối với an nhẫn Ba La Mật Đa này, thiệt giới chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được, vị giới cho đến các thọ do thiệt xuất làm duyên sanh ra đều chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có thiệt giới V. V, có thể nắm bắt được, huống là có cái ngã và vô ngã kia. Nếu người có khả năng tu an nhẫn như thế là tu an nhẫn Ba La Mật Đa. Lại nói thế này, thiện nam tử. Người nên tu an nhẫn Ba La Mật Đa, chẳng nên quán thiệt giới hoặc tỉnh, hoặc bất tỉnh, chẳng nên quán vị giới, thiệt thức giới và thiệt xuất cùng các thọ do thiệt xuất làm duyên sanh ra hoặc tỉnh, hoặc bất tỉnh. Vì sao? Vì thiệt giới và tử tánh của thiệt giới là không, vị giới, thiệt thức giới và thiệt xuất cùng các thọ do thiệt xuất làm duyên sanh ra và tử tánh của vị giới cho đến các thọ do thiệt xuất làm duyên sanh ra là không. Tử tánh của thiệt giới ấy tức chẳng phải là tử tánh, tử tánh của vị giới cho đến các thọ do thiệt xuất làm duyên sanh ra ấy cũng chẳng phải là tử tánh. Nếu chẳng phải là tử tánh thì tức là an nhẫn Ba La Mật Đa. Đối với an nhẫn Ba La Mật Đa này, thiệt giới chẳng thể nắm bắt được thì cái tỉnh, bất tỉnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được, vị giới cho đến các thọ do thiệt xuất làm duyên sanh ra đều chẳng thể nắm bắt được thì cái tỉnh, bất tỉnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có thiệt giới V. V có thể nắm bắt được, huống là có cái tỉnh và bất tỉnh kia. Nếu người có khả năng tu an nhẫn như thế là tu an nhẫn Ba La Mật Đa. Này Kiều Thi Ca! Thiện nam tử, thiện nữ nhân V, V, ấy nói những điều đó là tuyên thuyết an nhẫn Ba La Mật Đa một cách chân chắn. Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân V, V, vì người phát tâm vô thường bồ đệ, tuyên thuyết an nhẫn Ba La Mật Đa thì nói thế này, thiện nam tử. Người nên tu an nhẫn Ba La Mật Đa chẳng nên quán thân giới hoặc thường, hoặc vô thường, chẳng nên quán xuất giới, thân thức giới và thân xuất cùng các thọ do thân xuất làm duyên sanh ra hoặc thường, hoặc vô thường. Vì sao? Vì thân giới và tự tánh của thân giới là không, xuất giới, thân thức giới và thân xuất cùng các thọ do thân xuất làm duyên sanh ra và tự tánh của xuất giới cho đến các thọ do thân xuất làm duyên sanh ra là không. Tự tánh của thân giới ấy tức chẳng phải là tự tánh, tự tánh của xuất giới cho đến các thọ do thân xuất làm duyên sanh ra ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là an nhẫn Ba La Mật Đa. Đối với an nhẫn Ba La Mật Đa này, thân giới chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được, xuất giới cho đến các thọ do thân xuất làm duyên sanh ra đều chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó, còn không có thân giới V, V, có thể nắm bắt được, huống là có cái thường và vô thường kia. Nếu người có khả năng tu an nhẫn như thế là tu an nhẫn Ba La Mật Đa. Lại nói thế này, thiện nam tử. Người nên tu an nhẫn Ba La Mật Đa, chẳng nên quán thân giới hoặc lạc, hoặc khổ, chẳng nên quán xuất giới, thân thức giới và thân xuất cùng các thọ do thân xuất làm duyên sanh ra hoặc lạc, hoặc khổ. Vì sao? Vì thân giới và tự tánh của thân giới là không, xuất giới, thân thức giới và thân xuất cùng các thọ do thân xuất làm duyên sanh ra và tự tánh của xuất giới cho đến các thọ do thân xuất làm duyên sanh ra là không. Tự tánh của thân giới ấy tức chẳng phải là tự tánh, tự tánh của xuất giới cho đến các thọ do thân xuất làm duyên sanh ra ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là an nhẫn Ba La Mật Đa. Đối với an nhẫn Ba La Mật Đa này, thân giới chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được, xuất giới cho đến các thọ do thân xuất làm duyên sanh ra đều chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có thân giới V. V có thể nắm bắt được, huống là có cái lạc và khổ kia. Nếu người có khả năng tu an nhẫn như thế là tu an nhẫn Ba La Mật Đa. Lại nói thế này, thiện nam tử. Người nên tu an nhẫn Ba La Mật Đa chẳng nên quán thân giới hoặc ngã, hoặc vô ngã, chẳng nên quán xuất giới, thân thức giới và thân xuất cùng các thọ do thân xuất làm duyên sanh ra hoặc ngã, hoặc vô ngã. Vì sao? Vì thân giới và tự tánh của thân giới là không, xuất giới, thân thức giới và thân xuất cùng các thọ do thân xuất làm duyên sanh ra và tự tánh của xuất giới cho đến các thọ do thân xuất làm duyên sanh ra là không. Tự tánh của thân giới ấy tức chẳng phải là tự tánh, tự tánh của xuất giới cho đến các thọ do thân xuất làm duyên sanh ra ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là an nhẫn Ba La Mật Đa. Đối với an nhẫn Ba La Mật Đa này, thân giới chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được, xuất giới cho đến các thọ do thân xuất làm duyên sanh ra đều chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có thân giới V. V, có thể nắm bắt được, cũng là có cái ngã và vô ngã kia. Nếu người có khả năng tu an nhẫn như thế là tu an nhẫn Ba La Mật Đa. Lại nói thế này, thiện nam tử. Người nên tu an nhẫn Ba La Mật Đa, chẳng nên quán thân giới hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, chẳng nên quán xuất giới, thân thức giới và thân xuất cùng các thọ do thân xuất làm duyên sanh ra hoặc tịnh, hoặc bất tịnh. Vì sao? Vì thân giới và tự tánh của thân giới là không, xuất giới, thân thức giới và thân xuất cùng các thọ do thân xuất làm duyên sanh ra và tự tánh của xuất giới cho đến các thọ do thân xuất làm duyên sanh ra là không. Tự tánh của thân giới ấy tức chẳng phải là tự tánh, tự tánh của xuất giới cho đến các thọ do thân xuất làm duyên sanh ra ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là an nhẫn Ba La Mật Đa. Đối với an nhẫn Ba La Mật Đa này, thân giới chẳng thể nắm bắt được thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được, xuất giới cho đến các thọ do thân xuất làm duyên sanh ra đều chẳng thể nắm bắt được thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có thân giới V. V có thể nắm bắt được, huống là có cái tịnh và bất tịnh kia. Nếu người có khả năng tu an nhẫn như thế là tu an nhẫn Ba La Mật Đa. Này Kiều Thi Ca! Thiện nam tử, thiện nữ nhân V, V, ấy nói những điều đó là tuyên thuyết an nhẫn Ba La Mật Đa một cách chân chánh. Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân V, V, vì người Pháp tâm vô thường bồ đệ, tuyên thuyết an nhẫn Ba La Mật Đa, thì nói thế này, thiện nam tử! Người nên tu an nhẫn Ba La Mật Đa chẳng nên quán ý giới hoặc thường, hoặc vô thường, chẳng nên quán Pháp giới, ý thức giới và ý xuất cùng các thọ do ý xuất làm duyên sanh ra hoặc thường, hoặc vô thường. Vì sao? Vì ý giới và tử tánh của ý giới là không, Pháp giới, ý thức giới và ý xuất cùng các thọ do ý xuất làm duyên sanh ra và tử tánh của Pháp giới cho đến các thọ do ý xuất làm duyên sanh ra là không. Tử tánh của ý giới ấy tức chẳng phải là tử tánh, tử tánh của Pháp giới cho đến các thọ do ý xuất làm duyên sanh ra ấy cũng chẳng phải là tử tánh. Nếu chẳng phải là tử tánh thì tức là an nhẫn Ba La Mật Đa. Đối với an nhẫn Ba La Mật Đa này, ý giới chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được, Pháp giới cho đến các thọ do ý xuất làm duyên sanh ra đều chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó, còn không có ý giới V, V, có thể nắm bắt được, huống là có cái thường và vô thường kia. Nếu người có khả năng tu an nhẫn như thế là tu an nhẫn Ba La Mật Đa. Lại nói thế này, thiện nam tử. Người nên tu an nhẫn Ba La Mật Đa, chẳng nên quán ý giới hoặc lạc, hoặc khổ, chẳng nên quán Pháp giới, ý thức giới và ý xuất cùng các thọ do ý xuất làm duyên sanh ra hoặc lạc, hoặc khổ. Vì sao? Vì ý giới và tử tánh của ý giới là không, Pháp giới, ý thức giới và ý xuất cùng các thọ do ý xuất làm duyên sanh ra và tử tánh của Pháp giới cho đến các thọ do ý xuất làm duyên sanh ra là không. Tử tánh của ý giới ấy tức chẳng phải là tử tánh, tử tánh của Pháp giới cho đến các thọ do ý xuất làm duyên sanh ra ấy cũng chẳng phải là tử tánh. Nếu chẳng phải là tử tánh thì tức là an nhẫn Ba La Mật Đa. Đối với an nhẫn Ba La Mật Đa này, ý giới chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được, Pháp giới cho đến các thọ do ý xuất làm duyên sanh ra đều chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có ý giới về. Về có thể nắm bắt được, huống là có cái lạc và khổ kia. Nếu người có khả năng tu an nhẫn như thế là tu an nhẫn Ba La Mật Đa. Lại nói thế này, thiện nam tử. Người nên tu an nhẫn Ba La Mật Đa chẳng nên quán ý giới hoặc ngã, hoặc vô ngã, chẳng nên quán Pháp giới, ý thức giới và ý xuất cùng các thọ do ý xuất làm duyên sanh ra hoặc ngã, hoặc vô ngã. Vì sao? Vì ý giới và tự tánh của ý giới là không, Pháp giới, ý thức giới và ý xuất cùng các thọ do ý xuất làm duyên sanh ra và tự tánh của Pháp giới cho đến các thọ do ý xuất làm duyên sanh ra là không. Tự tánh của ý giới ấy tức chẳng phải là tự tánh, tự tánh của Pháp giới cho đến các thọ do ý xuất làm duyên sanh ra ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là an nhẫn Ba La Mật Đa. Đối với an nhẫn Ba La Mật Đa này, ý giới chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được, Pháp giới cho đến các thọ do ý xuất làm duyên sanh ra đều chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có ý giới V. V, có thể nắm bắt được, húng là có cái ngã và vô ngã kia. Nếu người có khả năng tu an nhẫn như thế là tu an nhẫn Ba La Mật Đa. Lại nói thế này, thiện nam tử. Người nên tu an nhẫn Ba La Mật Đa, chẳng nên quán ý giới hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, chẳng nên quán Pháp giới, ý thức giới và ý xuất cùng các thọ do ý xuất làm duyên sanh ra hoặc tịnh, hoặc bất tịnh. Vì sao? Vì ý giới và tự tánh của ý giới là không, Pháp giới, ý thức giới và ý xuất cùng các thọ do ý xuất làm duyên sanh ra và tự tánh của Pháp giới cho đến các thọ do ý xuất làm duyên sanh ra là không. Tự tánh của ý giới ấy tức chẳng phải là tự tánh, tự tánh của Pháp giới cho đến các thọ do ý xuất làm duyên sanh ra ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là an nhẫn Ba La Mật Đa. Đối với an nhẫn Ba La Mật Đa này, ý giới chẳng thể nắm bắt được thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được, Pháp giới cho đến các thọ do ý xuất làm duyên sanh ra đều chẳng thể nắm bắt được thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có ý giới V. V có thể nắm bắt được, huống là có cái tịnh và bất tịnh kia. Nếu người có khả năng tu an nhẫn như thế là tu an nhẫn Ba La Mật Đa. Này Kiều Thi Ca! Thiện nam tử, thiện nữ nhân V, V ấy nói những điều đó là tuyên thuyết an nhẫn Ba La Mật Đa một cách chân chánh. Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân V, V vì người phát tâm vô thường bồ đệ, tuyên thuyết an nhẫn Ba La Mật Đa thì nói thế này, thiện nam tử! Người nên tu an nhẫn Ba La Mật Đa chẳng nên quán địa giới hoặc thường, hoặc vô thường, chẳng nên quán thủy, hỏa, phong, không, thức giới hoặc thường, hoặc vô thường. Vì sao? Vì địa giới và tự tánh của địa giới là không, thủy, hỏa, phong, không, thức giới và tự tánh của thủy, hỏa, phong, không, thức giới là không. Tự tánh của địa giới ấy tức chẳng phải là tự tánh, tự tánh của thủy, hỏa, phong, không, thức giới ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là an nhẫn Ba La Mật Đa. Đối với an nhẫn Ba La Mật Đa này, địa giới chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được, thủy, hỏa, phong, không, thức giới đều chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có địa giới V. V, có thể nắm bắt được, huống là có cái thường và vô thường kia. Nếu người có khả năng tu an nhẫn như thế là tu an nhẫn Ba La Mật Đa. Lại nói thế này, thiện nam tử. Người nên tu an nhẫn Ba La Mật Đa, chẳng nên quán địa giới hoặc lạc, hoặc khổ, chẳng nên quán thủy, hỏa, phong, không, thức giới hoặc lạc, hoặc khổ. Vì sao? Vì địa giới và tự tánh của địa giới là không, thủy, hỏa, phong, không, thức giới và tự tánh của thủy, hỏa, phong, không, thức giới là không. Tự tánh của địa giới ấy tức chẳng phải là tự tánh, tự tánh của thủy, hỏa, phong, không, thức giới ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là an nhẫn Ba La Mật Đa. Đối với an nhẫn Ba La Mật Đa này, địa giới chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được, thủy, hỏa, phong, không, thức giới đều chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có địa giới V, V có thể nắm bắt được, huống là có cái lạc và khổ kia. Nếu ngươi có khả năng tu an nhẫn như thế là tu an nhẫn Ba La Mật Đa. Lại nói thế này, thiện nam tử. Ngươi nên tu an nhẫn Ba La Mật Đa, chẳng nên quán địa giới hoặc ngã, hoặc vô ngã, chẳng nên quán thủy, hỏa, phong, không, thức giới hoặc ngã, hoặc vô ngã. Vì sao? Vì địa giới và tự tánh của địa giới là không, thủy, hỏa, phong, không, thức giới và tự tánh của thủy, hỏa, phong, không, thức giới là không. Tự tánh của địa giới ấy tức chẳng phải là tự tánh, tự tánh của thủy, hỏa, phong, không, thức giới ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là an nhẫn Ba La Mật Đa. Đối với an nhẫn Ba La Mật Đa này, địa giới chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được, thủy, hỏa, phong, không, thức giới đều chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có địa giới V, V, có thể nắm bắt được, huống là có cái ngã và vô ngã kia. Nếu người có khả năng tu an nhẫn như thế là tu an nhẫn Ba La Mật Đa. Lại nói thế này, thiện nam tử. Người nên tu an nhẫn Ba La Mật Đa, chẳng nên quán địa giới hoặc tỉnh, hoặc bất tỉnh, chẳng nên quán thủy, hỏa, phong, không, thức giới hoặc tỉnh, hoặc bất tỉnh. Vì sao? Vì địa giới và tự tánh của địa giới là không, thủy, hỏa, phong, không, thức giới và tự tánh của thủy, hỏa, phong, không, thức giới là không. Tự tánh của địa giới ấy tức chẳng phải là tự tánh, tự tánh của thủy, hỏa, phong, không, thức giới ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là an nhẫn Ba La Mật Đa. Đối với an nhẫn Ba La Mật Đa này, địa giới chẳng thể nắm bắt được thì cái tỉnh, bất tỉnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được, thủy, hỏa, phong, không, thức giới đều chẳng thể nắm bắt được thì cái tỉnh, bất tỉnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có địa giới V.V. có thể nắm bắt được, huống là có cái tỉnh và bất tỉnh kia. Nếu người có khả năng tu an nhẫn như thế là tu an nhẫn Ba La Mật Đa. Này Kiều Thi Ca! Thiện nam tử, thiện nữ nhân V.V. ấy nói những điều đó là tuyên thuyết an nhẫn Ba La Mật Đa một cách chân chánh. Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân V.V. vì người phát tâm vô thường bồ đệ, tuyên thuyết an nhẫn Ba La Mật Đa thì nói thế này, thiện nam tử! Người nên tu an nhẫn Ba La Mật Đa chẳng nên quán vô minh hoặc thường, hoặc vô thường, chẳng nên quán hành, thức, danh sách, luật sứ, xuất, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, thang, khổ, tương, não hoặc thường, hoặc vô thường. Vì sao? Vì vô minh và tử tánh của vô minh là không, hành, thức, danh sách, luật sứ, xuất, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, thang, khổ, tương, não và tử tánh của hành cho đến lão tử, sầu, thang, khổ, tương, não là không. Tử tánh của vô minh ấy tức chẳng phải là tử tánh, tử tánh của hành cho đến lão tử, sầu, thang, khổ, tương, não ấy cũng chẳng phải là tử tánh. Nếu chẳng phải là tử tánh thì tức là an nhẫn Palamuddha. Đối với an nhẫn Palamuddha này, vô minh chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được, hành cho đến lão tử, sầu, thang, khổ, tương, não đều chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó, còn không có vô minh về, về, có thể nắm bắt được, hướng là có cái thường và vô thường kia. Nếu ngươi có khả năng tu an nhẫn như thế là tu an nhẫn Palamuddha. Lại nói thế này, thiện nam tử. Ngươi nên tu an nhẫn Palamuddha, chẳng nên quán vô minh hoặc lạc, hoặc khổ, chẳng nên quán hành, thức, danh sát, luật sứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, thang, khổ, tương, não hoặc lạc, hoặc khổ. Vì sao? Vì vô minh và tử tánh của vô minh là không, hành, thức, danh sát, luật sứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, thang, khổ, tương, não và tử tánh của hành cho đến lão tử, sầu, thang, khổ, tương, não là không. Tử tánh của vô minh ấy tức chẳng phải là tử tánh, tử tánh của hành cho đến lão tử, sầu, thang, khổ, tương, não ấy cũng chẳng phải là tử tánh. Nếu chẳng phải là tử tánh thì tức là an nhẫn Palamuddha. Đối với an nhẫn Palamuddha này, vô minh chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được, hành cho đến lão tử, sầu, thang, khổ, tương, não đều chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có vô minh về. Về, có thể nắm bắt được, huống là có cái lạc và khổ kia. Nếu ngươi có khả năng tu an nhẫn như thế là tu an nhẫn Palamuddha. Lại nói thế này, thiện nam tử. Ngươi nên tu an nhẫn Palamuddha, chẳng nên quán vô minh hoặc ngã, hoặc vô ngã, chẳng nên quán hành, thức, danh sách, luật sướng, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, thang, khổ, tương, não hoặc ngã, hoặc vô ngã. Vì sao? Vì vô minh và tử tánh của vô minh là không, hành, thức, danh sách, luật sứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, thang, khổ, tương, não và tử tánh của hành cho đến lão tử, sầu, thang, khổ, tương, não là không. Tử tánh của vô minh ấy tức chẳng phải là tử tánh, tử tánh của hành cho đến lão tử, sầu, thang, khổ, tương, não ấy cũng chẳng phải là tử tánh. Nếu chẳng phải là tử tánh thì tức là an nhẫn Palamuddha. Đối với an nhẫn Palamuddha này, vô minh chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được, hành cho đến lão tử, sầu, thang, khổ, tương, não đều chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có vô minh về. Về, có thể nắm bắt được, huống là có cái ngã và vô ngã kia. Nếu ngươi có khả năng tu an nhẫn như thế là tu an nhẫn Palamuddha. Lại nói thế này, thiện nam tử. Ngươi nên tu an nhẫn Palamuddha, chẳng nên quán vô minh hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, chẳng nên quán hành, thức, danh sách, luật sướng, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, thang, khổ, tương, não hoặc tịnh, hoặc bất tịnh. Vì sao? Vì vô minh và tự tánh của vô minh là không, hành, thức, danh sách, luật sứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, thang, khổ, tương, não và tự tánh của hành cho đến lão tử, sầu, thang, khổ, tương, não là không. Tự tánh của vô minh ấy tức chẳng phải là tự tánh, tự tánh của hành cho đến lão tử, sầu, thang, khổ, tương, não ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là an nhẫn Palamuddha. Đối với an nhẫn Palamuddha này, vô minh chẳng thể nắm bắt được thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được, hành cho đến lão tử, sầu, thang, khổ, tương, não đều chẳng thể nắm bắt được thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có vô minh về. Về, có thể nắm bắt được, huống là có cái tịnh và bất tịnh kia. Nếu người có khả năng tu an nhẫn như thế là tu an nhẫn Palamuddha. Đại Tiều Thi Ca Thiện Nam Tử, Thiện Nữ Nhân V, V, ấy nói những điều đó là tuyên thuyết an nhẫn Palamuddha một cách chân chánh.