black friday sale

Big christmas sale

Premium Access 35% OFF

Home Page
cover of kinhdaibatnha (330)
kinhdaibatnha (330)

kinhdaibatnha (330)

Phuc Tien

0 followers

00:00-43:28

Nothing to say, yet

Podcastspeech synthesizerspeechnarrationmonologuemale speech

Audio hosting, extended storage and much more

AI Mastering

Transcription

Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa Tập 14, Quyển 330 L. Phẩm Phương Tiện Thiện Xảo 03 Phật dạy, này thiện hiện Đúng vậy! Đúng vậy! Nghĩa Bất Khả Thuyết không tăng, không giảm, Bổ Thí Ba La Mật Đa cũng không tăng, không giảm, Tịnh Giới, An Nhẫn, Tinh Tấn, Tịnh Lựu, Bát Nhã Ba La Mật Đa cũng không tăng, không giảm, 4 Bốn Niệm Trụ cũng không tăng, không giảm, 4 Chánh Đoạn, 4 Thần Túc, 5 Căng, 5 Lực, 7 Chi Đẳng Giác, 8 Chi Thánh Đạo cũng không tăng, không giảm, 4 Tịnh Lựu cũng không tăng, không giảm, 4 Vô Lượng, 4 Định Vô Sắc cũng không tăng, không giảm, 8 Giải Thoát cũng không tăng, không giảm, 8 Tháng Sứng, 9 Định Thứ Đệ, 10 Biến Sứ cũng không tăng, không giảm, Pháp Môn Giải Thoát Không cũng không tăng, không giảm, Pháp Môn Giải Thoát Vô Trướng, Vô Nguyện cũng không tăng, không giảm, Bật Trực Hỷ cũng không tăng, không giảm, Bật Ly Cấu, Bật Phát Quan, Bật Diệm Tuệ, Bật Trực Nang Thắng, Bật Hiện Tiền, Bật Viễn Hành, Bật Bất Động, Bật Thiện Tuệ, Bật Pháp Vân cũng không tăng, không giảm, 5 Loại Mắt cũng không tăng, không giảm, 6 Phép Thần Thông cũng không tăng, không giảm, Pháp Môn Tam Ma Địa cũng không tăng, không giảm, Pháp Môn Đà La Nhi cũng không tăng, không giảm, 10 Lực Phật cũng không tăng, không giảm, 4 Điều Không Sợ, 4 Sự Hiểu Biết Thông Suốt, Đại Từ, Đại Bi, Đại Hỷ, Đại Sả, 18 Pháp Phật Bất Cộng cũng không tăng, không giảm, Pháp Không Quên Mất cũng không tăng, không giảm, Tánh Luân Luân Sả cũng không tăng, không giảm, Trí Nhất Thiết cũng không tăng. Không giảm, Trí Đạo Tướng, Trí Nhất Thiết Tướng cũng không tăng, không giảm. Này Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát tu hành bác nhã Ba La Mật Đa, an trụ phương tiện thiện xảo bác nhã Ba La Mật Đa, chẳng nghĩ thế này, ta đối với bác nhã Ba La Mật Đa hoặc tăng hoặc giảm, chẳng nghĩ thế này, ta đối với tình lựu, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba La Mật Đa hoặc tăng hoặc giảm, chỉ nghĩ thế này, chỉ có ý niệm về danh xưng là bác nhã Ba La Mật Đa, chỉ nghĩ thế này, chỉ có ý niệm về danh xưng là tình lựu, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba La Mật Đa. Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát ấy khi tu hành bố thí Ba La Mật Đa, đem tác ý câu hành với bố thí này và tâm cùng thiện căng nương đây mà khởi, ban cho các hữu tình cùng có như nhau sự hồi hướng quả vị giác ngộ cao tột, như quả vị giác ngộ cao tột sâu xa vi diệu của Phật mà phát khởi hồi hướng. Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát ấy khi tu hành tình giới Ba La Mật Đa, đem tác ý câu hành với tình giới này và tâm cùng thiện căng nương đây mà khởi, ban cho các hữu tình cùng có như nhau sự hồi hướng quả vị giác ngộ cao tột, như quả vị giác ngộ cao tột vi diệu sâu xa của Phật mà phát khởi hồi hướng. Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát ấy khi tu hành tình giới Ba La Mật Đa, đem tác ý câu hành với tình giới này và tâm cùng thiện căng nương đây mà khởi, ban cho các hữu tình cùng có như nhau sự hồi hướng quả vị giác ngộ cao tột, như quả vị giác ngộ cao tột vi diệu sâu xa của Phật mà phát khởi hồi hướng. Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát ấy khi tu hành tình giới Ba La Mật Đa, đem tác ý câu hành với tình giới này và tâm cùng thiện căng nương đây mà khởi, ban cho các hữu tình cùng có như nhau sự hồi hướng quả vị giác ngộ cao tột, như quả vị giác ngộ cao tột vi diệu sâu xa của Phật mà phát khởi hồi hướng. Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát ấy khi tu hành tình giới Ba La Mật Đa, đem tác ý câu hành với tình giới này và tâm cùng thiện căng nương đây mà khởi, ban cho các hữu tình cùng có như nhau sự hồi hướng quả vị giác ngộ cao tột, như quả vị giác ngộ cao tột vi diệu sâu xa của Phật mà phát khởi hồi hướng. Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát ấy khi tu hành tình giới Ba La Mật Đa, đem tác ý câu hành với tình giới này và tâm cùng thiện căng nương đây mà khởi, ban cho các hữu tình cùng có như nhau sự hồi hướng quả vị giác ngộ cao tột, như quả vị giác ngộ cao tột vi diệu sâu xa của Phật mà phát khởi hồi hướng. Do sức phương tiện thiện xảo hồi hướng này mà chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Bây giờ, cụ Thọ Thiện Hiện bạch Phật, bạch Thế Tôn. Sao gọi là quả vị giác ngộ cao tột? Phật dạy, này Thiện Hiện! Chân như của các Pháp là quả vị giác ngộ cao tột. Cụ Thọ Thiện Hiện lại bạch, bạch Thế Tôn! Chân như của các Pháp nào mà nói là chân như của các Pháp là quả vị giác ngộ cao tột? Phật dạy, này Thiện Hiện! Chân như của Sắc là quả vị giác ngộ cao tột. Chân như của Thọ, Tưởng, Hành, Thức là quả vị giác ngộ cao tột. Này Thiện Hiện! Chân như của Nhãn Sứ là quả vị giác ngộ cao tột. Chân như của Nhĩ, Tỉ, Thiệt, Thân, Ý Sứ là quả vị giác ngộ cao tột. Này Thiện Hiện! Chân như của Sắc Sứ là quả vị giác ngộ cao tột. Chân như của Thanh, Hương, Vị, Xuất, Pháp Sứ là quả vị giác ngộ cao tột. Này Thiện Hiện! Chân như của Nhãn Sứ là quả vị giác ngộ cao tột. Chân như của Nhĩ, Tỉ, Thiệt, Thân, Ý Sứ là quả vị giác ngộ cao tột. Này Thiện Hiện! Chân như của Sắc Sứ là quả vị giác ngộ cao tột. Chân như của Thanh, Hương, Vị, Xuất, Pháp Sứ là quả vị giác ngộ cao tột. Này Thiện Hiện! Chân như của Nhãn Sứ là quả vị giác ngộ cao tột. Chân như của Nhĩ, Tỉ, Thiệt, Thân, Ý Sứ là quả vị giác ngộ cao tột. Này Thiện Hiện! Chân như của Nhãn Sứ là quả vị giác ngộ cao tột. Chân như của Nhĩ, Tỉ, Thiệt, Thân, Ý Sứ là quả vị giác ngộ cao tột. Này Thiện Hiện! Chân như của Nhãn Sứ là quả vị giác ngộ cao tột. Chân như của Nhĩ, Tỉ, Thiệt, Thân, Ý Sứ là quả vị giác ngộ cao tột. Này Thiện Hiện! Chân như của Địa Giới là quả vị giác ngộ cao tột. Chân như của Thủy, Hỏa, Phông, Không, Thước Giới là quả vị giác ngộ cao tột. Này Thiện Hiện! Chân như của Tánh Nhân Duyên là quả vị giác ngộ cao tột. Chân như của Tánh Đẳng Vô Gián Duyên, Sở Duyên Duyên, Tăng Thượng Duyên là quả vị giác ngộ cao tột. Này Thiện Hiện! Chân như của Vô Minh là quả vị giác ngộ cao tột. Chân như của Hành, Thức, Danh Sắc, Luật Sứ, Xuất, Thọ, Ái, Thủ, Hữu, Xanh, Lão Tử là quả vị giác ngộ cao tột. Này Thiện Hiện! Chân như của Bố Thí Ba La Mật Đa là quả vị giác ngộ cao tột. Chân như của Tình Giới, An Nhẫn, Tinh Tấn, Tình Lự, Bát Nhã Ba La Mật Đa là quả vị giác ngộ cao tột. Này Thiện Hiện! Chân như của Pháp Không Nội là quả vị giác ngộ cao tột. Chân như của Pháp Không Ngoại, Pháp Không Nội Ngoại, Pháp Không Không, Pháp Không Lớn, Pháp Không Thắng Nghĩa, Pháp Không Hữu Vi, Pháp Không Vô Vi, Pháp Không Trốt Tráo, Pháp Không Không Biên Giới, Pháp Không Tản Mạng, Pháp Không Không Đổi Khác, Pháp Không Bản Tánh, Pháp Không Tự Tướng, Pháp Không Tổng Tướng, Pháp Không Tất Cả Pháp, Pháp Không Chẳng Thể Nắm Bắt Được, Pháp Không Không Tánh, Pháp Không Tự Tánh, Pháp Không Chẳng Thể Nắm Bắt Được, Pháp Không Chẳng Thể Nắm Bắt Đ Pháp Không Không Tánh Tự Tánh là quả vị giác ngộ cao tột. Này Thiện Hiện! Chân như của chân như là quả vị giác ngộ cao tột, chân như của Pháp Giới, Pháp Tánh, Tánh Chẳng Hư Vọng, Tánh Chẳng Đổi Khác, Tánh Bình Đẳng, Tánh Ly Xanh, Pháp Định, Pháp Trụ, Thực Tế, Cảnh Giới Hư là không, Cảnh Giới Bất Trương Nhì là quả vị giác ngộ cao tột. Này Thiện Hiện! Chân như của bốn bốn niệm trụ là quả vị giác ngộ cao tột, chân như của bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căng, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo là quả vị giác ngộ cao tột. Này Thiện Hiện! Chân như của thánh đế khổ là quả vị giác ngộ cao tột, chân như của thánh đế tập, diệt, đạo là quả vị giác ngộ cao tột. Này Thiện Hiện! Chân như của bốn tịnh lự là quả vị giác ngộ cao tột, chân như của bốn vô lượng, bốn định vô sắc là quả vị giác ngộ cao tột. Này Thiện Hiện! Chân như của tám giải thoát là quả vị giác ngộ cao tột, chân như của tám thắng xứ, chính định thứ đệ, mười biến xứ là quả vị giác ngộ cao tột. Này Thiện Hiện! Chân như của pháp môn giải thoát không là quả vị giác ngộ cao tột, chân như của pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện là quả vị giác ngộ cao tột. Này Thiện Hiện! Chân như của bậc cực khỉ là quả vị giác ngộ cao tột, chân như của bậc ly cấu, bậc phát quan, bậc dịm tuệ, bậc cực ngang thắng, bậc hiện tiền, bậc viễn hành, bậc bất động, bậc thiện tuệ, bậc pháp vân là quả vị giác ngộ cao tột. Này Thiện Hiện! Chân như của năm loại mắt là quả vị giác ngộ cao tột, chân như của sáu phép thần thông là quả vị giác ngộ cao tột. Này Thiện Hiện! Chân như của pháp môn Tamadea là quả vị giác ngộ cao tột, chân như của pháp môn Dalani là quả vị giác ngộ cao tột. Này Thiện Hiện! Chân như của mười lực Phật là quả vị giác ngộ cao tột, chân như của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại tư, đại bi, đại hỷ, đại xã, mười tám Pháp Phật bất cộng là quả vị giác ngộ cao tột. Này Thiện Hiện! Chân như của pháp không quên mất là quả vị giác ngộ cao tột, chân như của tánh luôn luôn xả là quả vị giác ngộ cao tột. Này Thiện Hiện! Chân như của quả dự lưu là quả vị giác ngộ cao tột, chân như của quả nhất lai, vất hoàng, à la háng là quả vị giác ngộ cao tột. Này Thiện Hiện! Chân như của quả vị độc giác là quả vị giác ngộ cao tột. Này Thiện Hiện! Chân như của trí nhất thiết là quả vị giác ngộ cao tột, chân như của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng là quả vị giác ngộ cao tột. Này Thiện Hiện! Chân như của sanh tử là quả vị giác ngộ cao tột, chân như của Niết Bàn là quả vị giác ngộ cao tột. Này Thiện Hiện! Chân như của các Pháp không tăng, không giảm, nên quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật cũng không tăng, không giảm. Này Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát chẳng xa Lệ Bát Nhã Ba La Mật Đà, thường ưa an trụ chân như của các Pháp, hoàn toàn chẳng thấy có Pháp nào có tăng có giảm. Pháp môn Tam Ma Địa cũng không tăng, không giảm. Pháp môn Đà La Nị cũng không tăng, không giảm. Mười lực Phật cũng không tăng, không giảm. Bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xã, mười tám Pháp Phật bất cộng cũng không tăng, không giảm. Pháp không quên mất cũng không tăng, không giảm. Tánh luôn luôn xã cũng không tăng, không giảm. Trí nhất thiết cũng không tăng, không giảm. Pháp môn Tam Ma Địa cũng không tăng, không giảm. Pháp môn Đà La Nị cũng không tăng, không giảm. Mười lực Phật cũng không tăng, không giảm. Bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xã, mười tám Pháp Phật bất cộng cũng không tăng, không giảm. Pháp không quên mất cũng không tăng, không giảm. Tánh luôn luôn xã cũng không tăng, không giảm. Trí nhất thiết cũng không tăng, không giảm. Trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng cũng không tăng, không giảm. Các Đại Bồ Tát nương vào sự không tăng, không giảm này mà phương tiện tu hành Bát Nhã Ba La Mật Đa. Do Pháp môn này tập hợp các công đức mà chứng quả vị giác ngộ cao tột. Bây giờ, cụ thọ thiện hiện Bạch Phật, Bạch Thế Tôn. Nếu Đại Bồ Tát nương vào sự không tăng, không giảm, phương tiện tu hành Bát Nhã Ba La Mật Đa và do Pháp môn này tập hợp tất cả công đức để chứng quả vị giác ngộ cao tột, thì Đại Bồ Tát ấy đã dùng sơ tâm để chứng quả vị giác ngộ cao tột hay dùng hậu tâm để chứng quả vị giác ngộ cao tột? Bạch Thế Tôn Đại Bồ Tát ấy nếu dùng sơ tâm chứng quả vị giác ngộ cao tột, thì khi sơ tâm khởi, hậu tâm chưa khởi, không có tính hòa hợp, còn nếu dùng hậu tâm chứng quả vị giác ngộ cao tột, thì khi hậu tâm khởi thì tiền tâm đã diệt, không có tính hòa hợp. Như vậy thì tâm, tâm sở Pháp trước sau, tấn thối, rồi sụt không có tính hòa hợp, thì làm sao có thể chứa nhóm thiện căng được? Nếu chẳng thể chứa nhóm các thiện căng được, thì làm sao Bồ Tát có thể chứng quả vị giác ngộ cao tột? Phật dạy, này thiện hiện! Ta sẽ nói một thí dụ ngắn gọn, khiến người có trí theo ý nghĩa diễn đạt, có thể dễ dàng hiểu được. Này thiện hiện! Theo ý ông thì sao, như khi thắp đèn, thì ngọn lửa ban đầu đốt tim hay ngọn lửa sau đốt tim? Bạch Thế Tôn Theo chỗ con hiểu thì chẳng phải ngọn lửa ban đầu đốt tim, cũng chẳng liền ngọn lửa ban đầu mà có thể đốt tim, chẳng phải ngọn lửa sau đốt tim, cũng chẳng liền ngọn lửa sau mà có thể đốt tim. Này thiện hiện! Theo ý ông thì sao, cái tim bị đốt chăng? Bạch Thế Tôn Theo cái thấy thông thường thì cái tim bị đốt thật. Phật dạy, này thiện hiện! Các Đại Bồ Tát cũng giống như thế, chẳng dùng sơ tâm chính đắc quả vị giác ngộ cao tột, cũng chẳng lìa sơ tâm chính đắc quả vị giác ngộ cao tột, chẳng phải dùng hậu tâm chính đắc quả vị giác ngộ cao tột, cũng chẳng lìa hậu tâm chính đắc quả vị giác ngộ cao tột. Do vậy, các Đại Bồ Tát chính đắc quả vị giác ngộ cao tột. Lại nữa, thiện hiện! Các Đại Bồ Tát từ sơ phát tâm tu hành bác nhã ba la mật đa viên mãn 10 bậc, chính đắc quả vị giác ngộ cao tột. Khi ấy, cụ thọ thiện hiện Bạch Phật, Bạch Thế Tôn. Các Đại Bồ Tát tu học 10 bậc nào viên mãn, chính đắc quả vị giác ngộ cao tột. Phật dạy, này thiện hiện! Các Đại Bồ Tát tu hành bậc cực khỉ cho đến bậc pháp vân làm cho viên mãn chính đắc quả vị giác ngộ cao tột, cũng học bậc tình quán, bậc trũng tánh, bậc đệ bác, bậc kiến, bậc bạc, bậc ly dục, bậc dĩ điện, bậc độc giác, bậc bồ tát, bậc như lai, làm cho viên mãn, chính đắc quả vị giác ngộ cao tột. Này thiện hiện! Các Đại Bồ Tát đối với 10 bậc này tinh cần tu học, khi được viên mãn, chẳng phải dùng sơ tâm chính đắc quả vị giác ngộ cao tột, cũng chẳng lìa sơ tâm chính đắc quả vị giác ngộ cao tột, chẳng phải dùng hậu tâm chính đắc quả vị giác ngộ cao tột, cũng chẳng lìa hậu tâm chính đắc quả vị giác ngộ cao tột. Do đó các Đại Bồ Tát chính đắc quả vị giác ngộ cao tột. Cụ thọ thiện hiện Bạch Phật, Bạch Thế Tôn Duyên khởi như thế rất sâu xa, rất vi diệu, đó là các Đại Bồ Tát chẳng phải dùng sơ tâm chính đắc quả vị giác ngộ cao tột, chẳng phải lìa sơ tâm chính đắc quả vị giác ngộ cao tột, chẳng phải dùng hậu tâm chính đắc quả vị giác ngộ cao tột, chẳng phải lìa hậu tâm chính đắc quả vị giác ngộ cao tột. Do đó các Đại Bồ Tát chính đắc quả vị giác ngộ cao tột. Phật dạy, này thiện hiện! Theo ý ông thì sao, nếu tâm đã diệt có thể sanh lại chăng? Thiện hiện đáp, Bạch Thế Tôn! Không! Bạch Thiện Thệ! Không! Phật dạy, này thiện hiện! Theo ý ông thì sao, nếu tâm đã sinh thì có pháp diệt chăng? Thiện hiện đáp, Bạch Thế Tôn! Đúng vậy! Bạch Thiện Thệ! Đúng vậy! Phật dạy, này thiện hiện! Theo ý ông thì sao, có tâm diệt pháp chẳng phải nên diệt chăng? Thiện hiện đáp, Bạch Thế Tôn! Không! Bạch Thiện Thệ! Không! Phật dạy, này thiện hiện! Theo ý ông thì sao, tâm trụ là như, tâm là chân như chăng? Thiện hiện đáp, Bạch Thế Tôn! Đúng vậy! Bạch Thiện Thệ! Đúng vậy! Phật dạy, này thiện hiện! Theo ý ông thì sao, tâm an trụ như chân như, là như thật tế chăng? Thiện hiện đáp, Bạch Thế Tôn! Không! Bạch Thiện Thệ! Không! Phật dạy, này thiện hiện! Theo ý ông thì sao, chân như thật tế là sâu xa chăng? Thiện hiện đáp, Bạch Thế Tôn! Đúng vậy! Bạch Thiện Thệ! Đúng vậy! Phật dạy, này thiện hiện! Theo ý ông thì sao, chính chân như là tâm chăng? Thiện hiện đáp, Bạch Thế Tôn! Không! Bạch Thiện Thệ! Không! Phật dạy, này thiện hiện! Theo ý ông thì sao, lì chân như có tâm chăng? Thiện hiện đáp, Bạch Thế Tôn! Không! Bạch Thiện Thệ! Không! Phật dạy, này thiện hiện! Theo ý ông thì sao, chính tâm là chân như chăng? Thiện hiện đáp, Bạch Thế Tôn! Không! Bạch Thiện Thệ! Không! Phật dạy, này thiện hiện! Theo ý ông thì sao, lì tâm có chân như chăng? Thiện hiện đáp, Bạch Thế Tôn! Không! Bạch Thiện Thệ! Không! Phật dạy, này thiện hiện! Theo ý ông thì sao, chân như thấy chân như chăng? Thiện hiện đáp, Bạch Thế Tôn! Không! Bạch Thiện Thệ! Không! Phật dạy, này thiện hiện! Theo ý ông thì sao, nếu Đại Bồ Tát năng tu hành như thế, là tu hành sâu sắc bát nhã Ba-la-mật-đa chăng? Thiện hiện đáp, nếu Đại Bồ Tát năng tu hành như thế là tu hành sâu sắc bát nhã Ba-la-mật-đa! Phật dạy, này thiện hiện! Theo ý ông thì sao, nếu Đại Bồ Tát năng tu hành như thế là tu hành chỗ nào? Thiện hiện đáp, nếu Đại Bồ Tát năng tu hành thì hoàn toàn không có chỗ tu hành! Vì sao? Bạch Thế Tôn! Vì nếu Đại Bồ Tát tu hành sâu sắc bát nhã Ba-la-mật-đa thì không có tâm hiện hành, không có chỗ hiện hành! Vì sao? Bạch Thế Tôn! Vì trong việc an trụ chân như hoàn toàn không hiện hành và không có chỗ hiện hành! Phật dạy, này thiện hiện! Theo ý ông thì sao, nếu Đại Bồ Tát khi tu hành sâu sắc bát nhã Ba-la-mật-đa là tu hành ở chỗ nào? Thiện hiện đáp, nếu Đại Bồ Tát khi tu hành sâu sắc bát nhã Ba-la-mật-đa thì tu hành ở Thắng Nghĩa Đế, nơi đây, hiện hành và chỗ hiện hành đều không có sở hữu, không có năng thủ, sở thủ, chẳng thể nắm bắt được! Phật dạy, này thiện hiện! Theo ý ông thì sao, nếu Đại Bồ Tát khi tu hành sâu sắc bát nhã Ba-la-mật-đa thì trong việc tu hành Thắng Nghĩa Đế, tuy chẳng chấp thủ tướng mà tu hành tướng chăng? Thiện hiện đáp, Bạch Thế Tôn! Không! Bạch Thiện Thệ! Không! Phật dạy, này thiện hiện! Theo ý ông thì sao, Đại Bồ Tát ấy khi tu hành sâu xa bát nhã Ba-la-mật-đa thì trong việc tu hành Thắng Nghĩa Đế là hoại tướng chăng? Thiện hiện đáp, Bạch Thế Tôn! Không! Bạch Thiện Thệ! Không! Phật dạy, này thiện hiện! Theo ý ông thì sao, Đại Bồ Tát ấy khi tu hành bát nhã Ba-la-mật-đa thì trong việc tu hành Thắng Nghĩa Đế hoại ý tưởng về tướng chăng? Thiện hiện đáp, Bạch Thế Tôn! Không! Bạch Thiện Thệ! Không! Phật dạy, này thiện hiện! Đại Bồ Tát ấy khi tu hành sâu xa bát nhã Ba-la-mật-đa chẳng hoại tướng, cũng chẳng cũng chẳng hoại ý tưởng về tướng chăng? Thiện hiện đáp, Đại Bồ Tát ấy khi tu hành sâu xa bát nhã Ba-la-mật-đa chẳng nghĩ thế này, ta sẽ hoại tướng và hoại ý tưởng về tướng, cũng chẳng nghĩ thế này, ta sẽ hoại vô tướng và hoại ý tưởng vô tướng, vì đối với tất cả Pháp không có phân biệt vậy. Bạch Thế Tôn! Đại Bồ Tát ấy tu hành sâu xa bát nhã Ba-la-mật-đa, tuy có thể xa lìa các sự phân biệt như thế, nhưng vì đối với vô lượng thù thắng công đức của mười lực Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết không suốt, Đại Từ, Đại Bi, Đại Hỷ, Đại Sả, mười tám Pháp Phật bất cộng V, V, chưa viên mãn nên chưa chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Bạch Thế Tôn! Đại Bồ Tát ấy thành tựu phương tiện thiện xảo vi diệu, do sức phương tiện thiện xảo này nên đối với tất cả Pháp chẳng thủ, chẳng hoại. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Vì Đại Bồ Tát ấy biết tự tướng của tất cả Pháp là không. Bạch Thế Tôn! Đại Bồ Tát ấy an trụ trong tự tướng không của tất cả Pháp vì nguyện lực đại bi độ các hữu tình nhập vào ba pháp Pháp Tama Địa, thôi thúc nên dùng ba thứ định này thành thuộc hữu tình. Phật dạy, này thiện hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói! Khi ấy, cụ thọ thiện hiện Bạch Phật, Bạch Thế Tôn. Đại Bồ Tát ấy vì sao nhập ba pháp Tama Địa này để thành thuộc hữu tình? Phật dạy, này thiện hiện! Đại Bồ Tát ấy an trụ Tama Địa không, thấy các hữu tình phần nhiều chấp ngã, nên dùng sức phương tiện giáo hóa, khiến an trụ Tama Địa không? Này thiện hiện! Đại Bồ Tát ấy an trụ Tama Địa vô tướng, thấy các hữu tình phần nhiều tu hành hình thức nên dùng phương tiện giáo hóa, khiến an trụ Tama Địa vô tướng? Này thiện hiện! Đại Bồ Tát ấy an trụ Tama Địa vô nguyện, thấy các hữu tình phần nhiều mong muốn ăn vui, nên dùng sức phương tiện giáo hóa, khiến an trụ Tama Địa vô nguyện? Này thiện hiện! Đại Bồ Tát ấy tu hành sâu sắc bát nhã Ba La Mật Đa, nhập ba pháp Tama Địa này thành thuộc hữu tình như thế? Bây giờ, cụ thọ xá lợi tử hỏi cụ thọ thiện hiện, thưa ngài thiện hiện! Nếu Đại Bồ Tát ở trong mộng nhập ba pháp Tama Địa này, đối với bát nhã Ba La Mật Đa sâu xa có tăng thêm lợi ít chăng? Thiện hiện đáp, thưa ngài xá lợi tử! Nếu Đại Bồ Tát vào lúc ban ngày nhập ba pháp Tama Địa này, thì đối với bát nhã Ba La Mật Đa sâu xa có tăng thêm lợi ít, thì ở trong mộng họ có nhập cũng có tăng thêm lợi ít. Vì sao? Thưa ngài xá lợi tử! Vì ban ngày cùng trong mộng không sai biệt! Thưa ngài xá lợi tử! Nếu Đại Bồ Tát ban ngày tu hành bát nhã Ba La Mật Đa mà đã gọi là tu tập bát nhã Ba La Mật Đa sâu xa thì Đại Bồ Tát ấy, trong mộng tu hành bát nhã Ba La Mật Đa cũng gọi là tu tập bát nhã Ba La Mật Đa sâu xa, ba pháp Tama Địa đối với bát nhã Ba La Mật Đa sâu xa, có thể làm tăng thêm lợi ít cũng giống như vậy. Khi ấy, xá lợi tử hỏi thiện hiện, các Đại Bồ Tát trong mộng tạo nghiệp có tăng thêm hoặc tổn giảm lợi ít chăng? Phật dạy, hữu vi là hư vọng chẳng thật như việc làm trong mộng, thì tại sao hành động kia có thể tăng hoặc giảm? Vì sao? Vì chẳng phải đối với các việc đã làm trong mộng có thể tăng thêm lợi ít, hoặc có thể tổn giảm, mà ngay đến khi tỉnh, nhớ tưởng phân biệt việc làm trong mộng cũng có sự tăng giảm. Thiện hiện đáp, có các người ban ngày giết hại sanh mạng kẻ khác, rồi vào ban đêm, trong mộng nhớ nghĩ phân biệt, tự mình rất vui sướng, hoặc có người mộng thấy giết người tưởng là khi tỉnh, phát sanh vui mừng, hay nhiệt như thế, theo ý ngài thì sao? Xá lợi tử đáp, không có cái sở duyên thì hoặc suy nghĩ, hoặc hành động đều chẳng phát sanh được, cần có sở duyên thì suy nghĩ và hành động mới phát khởi. Trong mộng suy nghĩ và hành động duyên vào đâu mà sanh? Thiện hiện đáp, đúng vậy, đúng vậy. Hoặc mộng, hoặc tỉnh, không có cái sở duyên thì suy nghĩ và hành động chẳng sanh, cần có sở duyên thì suy nghĩ và hành động mới hiện khởi. Vì sao? Thưa ngài Xá lợi tử! Hoặc mộng, hoặc tỉnh cần phải ở trong pháp kiến văn giác kia, có sự chuyển biến của nhận thức, do đó mới khởi nhiễm, hoặc khởi tình. Nếu không có các pháp thấy, nghe, hiểu, biết, thì không có sự chuyển biến của nhận thức, cũng không nhiễm không tình. Do đó nên biết hoặc mộng, hoặc tỉnh, có cái sở duyên thì suy nghĩ và hành động mới khởi, không có cái sở duyên thì suy nghĩ và hành động chẳng phát sanh. Khi ấy, Xá lợi tử hỏi thiện hiện, Phật dạy tư duy và tạo tác đều liều tự tánh, thì tại sao có thể nói có sở duyên hiện khởi? Thiện hiện đáp, tuy các tư duy, tạo tác và pháp sở duyên, tự tánh đều là không, nhưng do tự tâm thủ tướng phân biệt nên nói tư duy tạo tác có sở duyên mới sanh. Nếu không có sở duyên, thì tư duy và tạo tác không khởi. Bây giờ, cụ thọ Xá lợi tử lại hỏi cụ thọ thiện hiện, nếu Đại Bồ-Tát trong mộng tu hành bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, bác nhã, đem thiện căng này ban cho các hữu tình đều có như nhau, hồi hướng quả vị giác ngộ cao tột, thì Đại Bồ-Tát ấy có phải thật hồi hướng Đại Bồ-đời chăng? Khi ấy, cụ thọ thiện hiện nói với Xá lợi tử, Đại Bồ-Tát Từ Thị từ lâu đã được thọ ký bất thối chuyển, chỉ còn cách một đời nữa, nhất định sẽ thành Phật, đủ khả năng khéo léo trả lời tất cả nạn vấn. Hiện tại trong pháp hội này, ta nên thỉnh vấn ngay. Bổ xứ Từ Tôn nhất định sẽ trả lời. Khi ấy, Xá lợi tử theo lời thiện hiện cung kính thỉnh vấn Bồ-Tát Từ Thị. Khi ấy, Bồ-Tát Từ Thị nói với Xá lợi tử, gọi tên lại những pháp gì để Từ Thị ta có thể giải đáp, là sát chăng? Là thọ, tưởng, hành, thức chăng? Là cái không của sát chăng? Là cái không của thọ, tưởng, hành, thức chăng? Và lại sát chẳng có thể giải đáp, thọ, tưởng, hành, thức cũng chẳng có thể giải đáp? Cái không của sát chẳng có thể giải đáp, cái không của thọ, tưởng, hành, thức cũng chẳng có thể giải đáp? Vì sao? Này Xá lợi tử! Ta hoàn toàn chẳng thấy có pháp nào năng giải đáp, có pháp nào sở giải đáp, chỗ giải đáp, thời gian giải đáp và do đó mà giải đáp cũng đều chẳng thấy. Ta hoàn toàn chẳng thấy có pháp năng thọ ký, có pháp sở thọ ký, chỗ thọ ký, thời gian thọ ký và do đó mà được thọ ký cũng đều chẳng thấy. Vì bản tánh của tất cả pháp đều không, hoàn toàn không sở hữu, không hay, không phân biệt, rốt ráo suy vi chẳng thể nắm bắt được. Khi ấy, Xá lợi tử lại hỏi Đại Bồ-Tát Từ Thị, pháp mà Ngài đã nói có phải đúng như Ngài đã chứng chăng? Đại Bồ-Tát Từ Thị nói, pháp mà ta đã nói chẳng phải như pháp đã chứng. Vì sao? Này Xá lợi tử! Vì pháp mà ta đã chứng là bất xả thuyết. Khi ấy, Xá lợi tử lại nghĩ thế này, Đại Bồ-Tát Từ Thị trí tuệ sâu rộng, tu tất cả pháp bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tình lự, bác nhã ba la mật đa viên mãng từ lâu, lấy vô sở đắc làm phương tiện. Đối với các câu hỏi, có thể giải đáp như thế? Lúc bấy giờ, Phật bảo Xá lợi tử, này Xá lợi tử! Theo ý ông thì sao, ông do pháp ấy mà chứng đắc quả A-La-Háng, có thể thấy pháp này là có thể nói chăng? Xá lợi tử đáp, bạch thế tôn? Không. Bạch thiền thệ? Không. Phật dạy, này Xá lợi tử! Các pháp đã chứng của các Đại Bồ-Tát tu hành sâu sắc bác nhã ba la mật đa cũng lại như vậy. Này Xá lợi tử! Đại Bồ-Tát ấy chẳng nghĩ thế này, ta do pháp này sẽ được thọ ký, ta do pháp này hiện được thọ ký, ta do pháp này đã được thọ ký. Chẳng nghĩ thế này, ta do pháp này sẽ được chứng quả vị giác ngộ cao tộc. Này Xá lợi tử! Đại Bồ-Tát ấy tu hành sâu sắc bác nhã ba la mật đa chẳng sanh do dự là ta đối với quả vị giác ngộ cao tộc là đắc hay là chẳng đắc. Chỉ nghĩ thế này, ta đối với quả vị giác ngộ cao tộc nhất định sẽ chứng đắc. Này Xá lợi tử! Đại Bồ-Tát ấy tu hành sâu sắc bác nhã ba la mật đa, nghe pháp sâu xa, tâm vị ấy chẳng kinh, chẳng hải, chẳng sợ đối với sự chứng đắc quả vị giác ngộ cao tộc, cũng chẳng sợ sệt, quyết định tự biết là ta sẽ chứng đắc sở cầu là quả vị giác ngộ cao tộc. Li Phẩm Hành Nguyện 0-1 Bây giờ, Phật bảo cụ thọ thiện hiện, này thiện hiện! Có Đại Bồ-Tát tu hành bố thí ba la mật đa, thấy các hữu tình bị đói sát bức bách, y phục trách trưới, đồ nằm thiếu thốn. Này thiện hiện! Đại Bồ-Tát ấy thấy việc ấy rồi, nghĩ thế này, ta nên làm thế nào để cứu vớt các loại hữu tình ấy, khiến họ lìa sang tham, không còn thiếu thốn. Đã nghĩ như vậy rồi phát nguyện, ta phải tin cần chẳng thiết đến thân mạng, tu hành bố thí ba la mật đa, thành phục hữu tình, nhiên tình cõi Phật, khiến mau viên mãng, mau chứng đắc quả vị giác ngộ cao tộc. Trong cõi Phật của ta, sẽ không có các loại hữu tình thiếu thốn các đồ dùng như thế. Như chúng trời Tứ Thiên Vương, trời Ba Mươi Ba, trời Dạ Ma, trời Đỗ Sử Đa, trời Lạc Biến Hóa, trời Tha Hóa tự tại thọ dụng các loại nhạc cụ thường dịu, trong cõi Phật của ta, chúng sanh cũng được thọ dụng các thứ nhạc cụ thường dịu như thế. Này thiện hiện! Đại Bồ-Tát ấy do bố thí ba la mật đa này mà mau được viên mãng, gần gũi quả vị giác ngộ cao tộc. Lại nữa, thiện hiện! Có Đại Bồ-Tát tu hành tịnh giới ba la mật đa, thấy các hữu tình bị phiền não thiêu đốt, sát hại nhau, trộm cắp, dâm dục, tà hành, nói lời dối trá, nói lời thô ác, nói lời chia rẽ, nói lời hỗn tạp, phát khởi các thứ tham lam, sân giận, tà kiến. Do nhân duyên này, chết yếu, nhiều bệnh, nhan sắc tiêu tụy, không có oai đức, cụ cải thiếu thốn, sanh vào nhà hạ tiện, thân thể xấu xí tật nguyền, hôi hám, nói ra điều gì không ai tin theo, nói năng thô tục, thân hữu trái ý, chia lìa, phàm trình bày điều gì thấy đều quê tục, sang tham, tật đố, ác kiến thiêu đốt, vĩ bán chánh pháp, chê bai khánh hiền. Này thiện hiện! Đại Bồ Tát ấy đã thấy việc ấy rồi, nghĩ thế này, ta nên làm thế nào để cứu vớt các loại hữu tình như thế, khiến họ xa lịa các quả ác nghiệp, đã suy nghĩ rồi, phát lời nguyện, ta phải tinh cần, chẳng tiếc thân mạng, tu hành tình giới Palamuddha, thành thuộc hữu tình, nghiêm tình cõi Phật, khiến mau viên mãng, mau chứng quả vị giác ngộ cao tột. Trong cõi Phật của ta sẽ không có các loại hữu tình có các quả ác nghiệp như thế. Tất cả hữu tình đều hành thập thiện, được sống lâu, hưởng quả báo thắng dịu. Này thiện hiện! Đại Bồ Tát ấy do tình giới Palamuddha này mà mau được viên mãng, gần gũi quả vị giác ngộ cao tột. Lại nữa, thiện hiện! Có Đại Bồ Tát tu hành an nhẫn Palamuddha, thấy các hữu tình giận dữ, mắng nhiếc, lăng nhục lẫn nhau, dùng dao gậy, ngói đá, côn quyền, đất cục V, V, tàn hại lẫn nhau cho đến mất mạng, nhất quyết không bỏ. Này thiện hiện! Đại Bồ Tát ấy đã thấy việc ấy rồi, nghĩ thế này, ta nên làm thế nào để cứu vớt các loại hữu tình ấy, khiến họ xa lị các việc ác như thế? Đã suy nghĩ rồi, phát lời nguyện, ta phải tinh trần chẳng tiếc thân mạng, tu hành an nhẫn Palamuddha, thành thuộc hữu tình, nhiêm tình cõi Phật, khiến mau viên mãng, mau chứng quả vị giác ngộ cao tột. Trong cõi Phật của ta, không có các loại hữu tình có ác nghiệt phiền não như thế. Tất cả hữu tình lần lần gần gũi nhau như cha mẹ, như anh em, như chị em, như nam nữ, như bạn bè thương yêu nhau, làm lợi ích cho nhau. Này thiện hiện! Đại Bồ Tát ấy do an nhẫn Palamuddha này mà mau được viên mãng, gần gũi quả vị giác ngộ cao tột. Lại nữa, thiện hiện! Có Đại Bồ Tát tu hành tinh tấn Palamuddha, thấy các loại hữu tình, lười biến, quể quải, chẳng phiên tinh tấn, xả bỏ ba thừa, cũng chẳng thường tu thiện nhịp trời, người. Này thiện hiện! Đại Bồ Tát ấy, thấy việc ấy rồi, nghĩ thế này, ta nên làm thế nào để cứu vớt các loại hữu tình như thế, khiến họ xa lì biến lười quể quải? Đã nghĩ như thế rồi, phát lời nguyện, ta phải tin trần chẳng tiếc thân mạng, tu hành tinh tấn Palamuddha, thành thuộc hữu tình, nhiêm tịnh cõi Phật, khiến mau viên mãng, mau chứng quả vị giác ngộ cao tột. Trong cõi Phật của ta, không có các loại hữu tình biến lười quể quải như thế, tất cả hữu tình đều tinh tấn giỏng mảnh, xiên tu đường thiện và nhân ba thừa, sanh vào cõi trời người, mau chứng giải thoát. Này thiện hiện! Đại Bồ Tát ấy do tinh tấn Palamuddha này mà mau được viên mãng, gần gũi quả vị giác ngộ cao tột. Lại nữa, thiện hiện! Có Đại Bồ Tát tu hành tinh lựu Palamuddha, thấy các hữu tình tham dục, sân dận, hôn trầm, thùy miên, trạo cử, ác tác, nghi cái che lấp, thức niệm, phóng vật, đối với bốn tinh lựu và bốn vô lượng, bốn định vô sắc còn chẳng năng tu, húng là năng tu định để được xúc thế gian. Này thiện hiện! Đại Bồ Tát ấy, thấy việc ấy rồi, nghĩ thế này, ta nên làm thế nào để cứu vớt các loại hữu tình như thế, khiến họ xa lia các thứ che lấp, tán loạn, lây động. Đã nghĩ vậy rồi, phát lời nguyện, ta phải tinh cẩn chẳng tiếc thân mạng, tu hành tinh lựu Palamuddha, thành thuộc hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, khiến mau viên mãng, mau chứng quả vị giác ngộ cao tột. Trong cõi Phật của ta, không có các loại hữu tình đủ các thứ che lấp, tán loạn, lây động như thế. Tất cả hữu tình tự tại du hí trong các loại định tình lự, vô lượng, vô sắc, vê. Này thiện hiện! Đại Bồ Tát ấy do tình lự Palamuddha này mà mau được viên mãng, gần gũi quả vị giác ngộ cao tột. Lại nữa, thiện hiện! Có Đại Bồ Tát tu hành bác nhã Palamuddha, thấy các hữu tình ngu si, ác tuệ, đối với chánh kiến thế và xuất thế đều mất. Bác cho là không có nghiệt và nghiệt quả thiện ác, chấp đoạn, chấp thường, chấp mộc, chấp khác, câu, chẳng câu vê, vê, đủ các loại tạ phát. Này thiện hiện! Đại Bồ Tát, thấy việc này rồi, nghĩ thế này, ta nên làm gì để cứu giúp các loại hữu tình như thế, khiến xa lịa ác kiến, tạ chấp? Đã nghĩ vậy rồi, phát lời nguyện, ta phải tinh cần, chẳng tiếc thân mạng, tu hành bác nhã Palamuddha, thành thuộc hữu tình, nghiêm tình cõi Phật, khiến mau viên mãng, mau chính quả vị giác ngộ cao tột. Trong cõi Phật của ta, không có các loại hữu tình có ác tuệ, tạ chấp như thế, tất cả hữu tình thành tựu chánh kiến, đủ các loại dự tuệ, đầy đủ ba minh. Này thiện hiện! Đại Bồ Tát ấy do bác nhã Palamuddha này, mà mau được viên mãng, gần gũi quả vị giác ngộ cao tột. Lại nữa, thiện hiện! Có Đại Bồ Tát tu đủ sáu phép Palamuddha, thấy các hữu tình có ba nhóm sai biệt, một là nhóm tà định, hai là nhóm chánh định, ba là nhóm bất định. Này thiện hiện! Đại Bồ Tát ấy, thấy việc ấy rồi, nghĩ thế này, ta nên dùng phương tiện như thế nào để cứu giúp các loại hữu tình, khiến xa lị nhóm tà định và bất định. Đã nghĩ vậy rồi, phát lời nguyện, ta phải tin cần chẳng tiếc thân mạng, tu hành sáu phép Palamuddha, thành thuộc hữu tình, nhiên tịnh cõi Phật, khiến mau viên mãng, chống chính quả vị giác ngộ cao tột. Trong cõi Phật của ta, không có nhóm tà định và bất định. Các loại hữu tình cũng không có đủ cả ba nhóm tên gọi như thế, tất cả hữu tình đều chỉ có nhóm chánh định thôi. Này thiện hiện! Đại Bồ Tát ấy do sáu phép Palamuddha này mà chống được viên mãng, gần quỷ quả vị giác ngộ cao tột. Lại nữa, thiện hiện! Có Đại Bồ Tát tu hành đủ sáu phép Palamuddha, thấy các hữu tình đọa trong ba đường ác, một là địa ngục, hai là bàn xanh, ba là quỷ giới. Này thiện hiện! Đại Bồ Tát ấy thấy việc ấy rồi, nghĩ thế này, ta nên làm thế nào để cứu giúp các loại hữu tình như thế, khiến họ vĩnh viễn xa lịa cái khổ của ba đường ác. Đã nghĩ vậy rồi, phát lời nguyện, ta phải tinh cẩn chẳng tiếc thân mạng, tu hành sáu phép Palamuddha, thành thuộc hữu tình, nghiêm tình cõi Phật, khiến mau viên mãng, chống chính quả vị giác ngộ cao tột. Trong cõi Phật của ta, không có địa ngục, bàn xanh, quỷ giới, cũng không có tên của ba đường ác như thế. Tất cả hữu tình đều gầm thâu trong đường thiện. Này thiện hiện! Đại Bồ Tát ấy do sáu phép Palamuddha này mà mau được viên mãng, gần gũi quả vị giác ngộ cao tột. Lại nữa, thiện hiện! Có Đại Bồ Tát tu đủ sáu phép Palamuddha, thấy các hữu tình, do nghiệp chứng ác, chỗ ở trên quả đất cao thấp chẳng bằng, gò, đồi, khe, hâm, cỏ dại, cây trụi, gai gốc nhọn độc, dãy đầy đồ bất tình. Này thiện hiện! Đại Bồ Tát ấy thấy việc ấy rồi, nghĩ thế này, ta nên làm thế nào để cứu giúp các loại hữu tình như thế, khiến họ vĩnh viễn diệt các nghiệp chứng ác, chỗ ở đất bằng như bàn tay, không có các loại cỏ dại, cây trụi v.v. Đã nghĩ vậy rồi, phát lời nguyện, ta phải tinh cần chẳng tiếc thân mạng, tu hành sáu phép Palamuddha, thành thuộc hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, khiến mau viên mãng, chống chứng quả vị giác ngộ cao tột. Trong cõi Phật của ta, không có các đại địa do nghiệp Cảm Quế tạp như thế. Nơi ở của hữu tình đất đai bằng phẳng, vườn trừng ao suối, các hương hoa vi diệu, sen lẫn trang nghiêm, rất dễ ưa thích. Này thiện hiện! Đại Bồ Tát ấy do sáu phép Palamuddha này mà mau được viên mãng, gần gũi quả vị giác ngộ cao tột. Lại nữa, thiện hiện! Có Đại Bồ Tát tu đủ sáu phép Palamuddha, thấy các hữu tình, vì Phước Đức càng mỏng nên chỗ ở trên địa cầu, không có các trân bảo, chỉ có các loại đất, đá, mó dạch. Này thiện hiện! Đại Bồ Tát ấy, thấy việc ấy rồi, nghĩ thế này, ta phải làm thế nào cứu giúp các loại hữu tình nhiều tội, ít Phước như thế, khiến chỗ ở của họ có nhiều châu báu. Đã nghĩ vậy rồi, phát lời nguyện, ta phải tinh trần chẳng tiếc thân mạng, tu hành sáu phép Palamuddha, thành thuộc hữu tình, nhiên tình cõi Phật, khiến mau viên mãng, chống chứng quả vị giác ngộ cao tột. Trong cõi nước của ta không có các loại hữu tình nhiều tội ít Phước như thế, mà có các vàng đải đất, sắp nơi đều có mọc vệ lưu ly v.v., các loại ngọc kỳ lạ, vi diệu các hữu tình thọ dụng mà không nhiễm trước. Này thiện hiện! Đại Bồ Tát ấy do sáu phép Palamuddha này mà mau được viên mãng, đừng gũi quả vị giác ngộ cao tột. Lại nữa, thiện hiện! Có Đại Bồ Tát tu rủ sáu phép Palamuddha, thấy các hữu tình khi thâu nhận cái gì đều sanh luyến trước, khởi các việc ác. Này thiện hiện! Đại Bồ Tát ấy thấy việc ấy rồi, nghĩ thế này, ta phải làm thế nào để cứu giúp các loại hữu tình thâu nhận điều ác như vậy, khiến họ vĩnh viễn xa lịa ác nghiệp luyến trước? Đã nghĩ vậy rồi, phát lời nguyện, ta phải tinh cần chặn tiết thân mạng, tu hành sáu phép Palamuddha, thành thuộc hữu tình, nhiêm tình cõi Phật, khiến mau viên mãng, chống chứng quả vị giác ngộ cao tột. Trong cõi Phật của ta không có các loại hữu tình thâu nhận các điều ác như thế, tất cả hữu tình đối với các cảnh sát V, V, hoàn toàn không thâu nhận, chẳng sanh luyến trước. Này thiện hiện! Đại Bồ Tát ấy do sáu phép Palamuddha này, mau được viên mãng, gần gũi quả vị giác ngộ cao tột. Lại nữa, thiện hiện! Có Đại Bồ Tát tu đủ sáu phép Palamuddha, thấy các hữu tình có bốn dòng giỏi quý tiện sai biệt, một là Sát Đế Lợi, hai là Bà La Môn, ba là Phệ Xá, bốn là Thú Đạt La. Này thiện hiện! Đại Bồ Tát ấy, thấy việc ấy rồi, nghĩ thế này, ta phải dùng phương tiện thế nào để cứu giúp các loại hữu tình, khiến không có bốn dòng giỏi quý tiện sai biệt như thế? Đã nghĩ vậy rồi, phát lời nguyện, ta phải tinh trần chẳng tiếc thân mạng, tu hành sáu phép Palamuddha, thành phục hữu tình, nghiêm tình cõi Phật, khiến mau viên mãng, chống chứng quả vị giác ngộ cao tột. Trong cõi Phật của ta không có bốn dòng giỏi quý tiện sai biệt như thế, tất cả hữu tình đồng một dòng giỏi, thấy đều tôn quý, thuộc về loài người. Này thiện hiện! Đại Bồ Tát ấy do sáu phép Palamuddha này mà mau được viên mãng, gần gũi quả vị giác ngộ cao tột. Lại nữa, thiện hiện! Có Đại Bồ Tát tu đủ sáu phép Palamuddha, thấy các hữu tình có gia tộc thượng, trung, hạ sai biệt. Này thiện hiện! Đại Bồ Tát ấy thấy việc ấy rồi, nghĩ thế này, ta phải dùng phương tiện như thế nào để cứu giúp các loài hữu tình, khiến không có gia tộc bậc thượng, trung, hạ sai biệt. Đã nghĩ vậy rồi, phát lời nguyện, ta phải tinh cần chẳng tiết thân mạng, tu hành sáu phép Palamuddha, thành phục hữu tình, nghiêm tình cõi Phật, khiến mau viên mãng, chống chứng quả vị giác ngộ cao tột. Trong cõi Phật của ta, không có gia tộc bậc thượng, trung, hạ sai biệt, tất cả hữu tình đều đồng bậc thượng. Này thiện hiện! Đại Bồ Tát ấy do sáu phép Palamuddha này mà mau được viên mãng, gần gũi quả vị giác ngộ cao tột. Lại nữa, thiện hiện! Có Đại Bồ Tát tu đủ sáu phép Palamuddha, thấy các hữu tình đẹp đẻ, xấu xí, hình sắc sai biệt. Này thiện hiện! Đại Bồ Tát ấy thấy việc ấy rồi, nghĩ thế này, ta phải dùng phương tiện như thế nào để cứu giúp các loại hữu tình, khiến không có hình sắc sai biệt như thế? Đã nghĩ vậy rồi, phát lời nguyện, ta phải tinh trần chẳng tiết thân mạng, tu hành sáu phép Palamuddha, thành phục hữu tình, nghiêm tình cõi Phật, khiến mau viên mãng, chống chứng quả vị giác ngộ cao tột. Trong cõi Phật của ta, không có các loại hữu tình có hình sắc sai biệt như vậy. Tất cả các hữu tình đều là sắc vàng rộng, đẹp đẻ tuyệt vời, ai cũng ưa nhìn, thành tựu sắc thân viên mãng thanh tịnh đẻ nhất. Này thiện hiện! Đại Bồ Tát ấy do sáu phép Palamuddha này mà mau được viên mãng, gần gũi quả vị giác ngộ cao tột. Cảm ơn các bạn đã theo dõi, hẹn gặp lại các bạn trong những video tiếp theo.

Listen Next

Other Creators