Details
Nothing to say, yet
Big christmas sale
Premium Access 35% OFF
Nothing to say, yet
Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa Tập 20 Quyển 480 II Phẩm XALI Tử 02 Lại nữa, này xá lợi tử! Đại Bồ-Tát Tu Hành Bát Nhã Ba La Mật Đa đã phát sanh những công đức như vậy, thì khi ấy Tứ Đại Thiên Vương trong ba ngàn đại thiên thế giới vui mừng không suy nghĩ như vậy, hôm nay chúng ta nên đem bốn cái bát để cúng dường vị Bồ-Tát này, giống như xưa kia Thiên Vương đã dần cúng bát cho Đức Phật trước. Lúc đó, ba ngàn đại thiên thế giới, cõi trời 33, trời Giả Ma, trời Đâu Xuất Đà, trời Lạc Biến Hóa, trời Tha Hóa tự tại sung sướng vui mừng suy nghĩ như vậy, chúng ta hãy cung cấp hầu hạ, cúng dường vị Bồ-Tát để bẻ đảng hung ác của A Tố Lạc bị tổn giảm, làm cho quyến thủ của Chiêu Thiên được tăng trưởng lợi ích. Lúc đó, ba ngàn đại thiên thế giới, trời Phạm Chúng cho đến trời Đại Phạm, trời Quang cho đến trời Cực Quang Tịnh, trời Tịnh cho đến trời Biến Tịnh, trời Quảng cho đến trời Quảng Quả, trời Vô Phiền cho đến trời Sát Cứu Cánh đều vui mừng phấn khởi suy nghĩ như vậy, chúng ta nên thỉnh Bồ-Tát này mau chiếm quả vị vô thường chánh đẳng Bồ-Đệ, chuyển dịu pháp luôn để làm lợi ích tất cả. Lại nữa, này xá lợi tử! Nếu Đại Bồ-Tát tu hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa làm tăng trưởng bố thí, tình giới, an nhẫn, tinh tấn, tình lự, Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa và các pháp lành khác thì các thiện nam, thiện nữ nhân v.v. ở thế giới kia vui mừng không suy nghĩ như vậy, chúng ta xem vị Bồ-Tát đó như là cha mẹ, anh em, vợ con, quyến thuộc, trí thức bạn lành của ta. Khi ấy, thế giới trời tứ đại vương chúng đó cho đến trời tha hóa tự tại, trời phạm chúng cho đến trời đại phạm, trời quan cho đến trời cực quan tình, trời tịnh cho đến trời biến tình, trời quảng cho đến trời quảng quả, trời vô phiền cho đến trời sát cứu cánh đều vui mừng sung sướng suy nghĩ như vậy, chúng ta nên bậy mọi phương tiện để vị Bồ-Tát ấy liều bỏ pháp giam dục. Từ khi mới phát tâm cho đến chứng đắc cầu quả vị vô thường chánh đẳng Bồ-Đệ, luôn tu hành phạm hành, đối với pháp thuận lợi không sanh lòng đắm nhiễm. Vì sao? Vì tu hành chẳng phải phạm hành, sanh vào Phạm Thiên còn bị chứng ngại, thì làm sao chứng quả vị vô thường chánh đẳng Bồ-Đệ? Cho nên Đại Bồ-Tát đoạn dục xuất gia tu phạm hành có thể chứng đắc quả vị vô thường chánh đẳng Bồ-Đệ. Mai ra không xuất gia mà tu hành thì chẳng phải là phạm hành. Bây giờ, xá lợi tử bạch Phật. Bạch Thế Tôn Các Đại Bồ-Tát phải nhất thiết là có cha mẹ, vợ con, người thân bạn bè sao? Phật dạy Này xá lợi tử! Có Bồ-Tát đầy đủ cha mẹ, vợ con, quyến thuộc mà tu hành Đại Bồ-Tát, cũng có Bồ-Tát không có vợ con từ khi mới phát tâm cho đến khi thành Phật luôn tu phạm hành không làm mất đi bản chất đồng chân, cũng có Bồ-Tát dùng phương tiện thiện xảo ban đầu thì hiện hưởng thọ năm cảnh dục lạc, sau đó mới chán bỏ siêng năng tu phạm hành mới chứng được quả vị vô thường chánh đẳng Bồ-Đệ. Này xá lợi tử! Giống như thầy ảo thuật hoặc đệ tử của ông ta ảo thuật rất giỏi, có thể hóa làm đủ loại vui của năm dục, rồi trong năm dục huyển hóa đó, tha hộ hưởng thọ khoái lạc. Ý ông thế nào? Những gì mà người ảo thuật làm ra là có thật không? Xá lợi tử thưa! Bạch thế tôn! Không! Phật dạy! Này xá lợi tử! Đại Bồ-Tát cũng vậy, dùng phương tiện thiện xảo là để thành tựu các hữu tình nên thị hiện thọ năm dục nhưng thật không bị nhiễm. Vì sao? Vì đối với năm dục, Đại Bồ-Tát rất nhàm chán, không bị tội lỗi của năm dục làm ô quế, lại dùng vô lượng cách đệ của trách, chê bai các dục, lại nghĩ như vậy, ngủ dục giống như lửa giữ, dục như phân dơ, dục như kẻ đồ tể, dục như oán thu, dục như binh khí độc, dục như giếng sâu. Này xá lợi tử! Các Đại Bồ-Tát dùng vô lượng cách chê bai, của trách các dục như vậy, lẽ nào có các dục chân thật để mà hưởng thọ? Đó chỉ là phương tiện để làm lợi ích các hữu tình mà khiến có những việc hóa hiện lợi lạc như vậy. Bây giờ, xá lợi tử bạch Phật! Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-Tát nên hành bác nhã Ba-la-mật-đa sâu xa như thế nào? Phật dạy! Này xá lợi tử! Các Đại Bồ-Tát khi tu hành bác nhã Ba-la-mật-đa, nền quán như vậy, thật có Bồ-Tát, nhưng không thấy có Bồ-Tát, không thấy tên của Bồ-Tát, không thấy bác nhã Ba-la-mật-đa, không thấy tên của bác nhã Ba-la-mật-đa, không thấy hành, không thấy không hành. Vì sao? Này xá lợi tử! Vì tự tánh của Bồ-Tát là không, tên của Bồ-Tát là không. Vì sao? Tự tánh sắc là không, vì chẳng do không, tự tánh của thọ, tưởng, hành, thức là không, vì chẳng do không. Không của sắc chẳng phải là sắc, không của thọ, tưởng, hành, thức chẳng phải là thọ, tưởng, hành, thức. Sắc không lìa không, không chẳng lìa sắc, thọ, tưởng, hành, thức không lìa không, không chẳng lìa thọ, tưởng, hành, thức. Sắc tức là không, không tức là sắc, thọ, tưởng, hành, thức tức là không, không tức là thọ, tưởng, hành, thức. Vì sao? Này xá lợi tử! Đây chỉ có tên gọi là Bồ-Đệ, đây chỉ có tên gọi là Tát-Đỏ, đây chỉ có tên gọi là Bồ-Tát, đây chỉ có tên gọi là không. Như vậy, tự tánh không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh. Các Đại Bồ-Tát tu hành Bát-Nhã-Ba-La-Mật-Đa sâu xa như vậy thì không thấy sanh, không thấy diệt, không thấy nhiễm, không thấy tịnh. Vì sao? Này xá lợi tử! Đó chỉ là các tên khách giả lập để phân biệt riêng biệt các Pháp. Do có sự phân biệt, mượn lập ra các tên nên theo đó mà nói. Giống như theo lời nói như vậy rồi sanh tâm chấp trước. Các Đại Bồ-Tát khi tu hành Bát-Nhã-Ba-La-Mật-Đa đối với tất cả đều không thấy có cái tên chung và tên riêng. Do không thấy, nên không bị chấp trước. Lại nữa, này xá lợi tử! Đại Bồ-Tát khi tu hành Bát-Nhã-Ba-La-Mật-Đa nên quán như vậy, Bồ-Tát chỉ có tên, Phật chỉ có tên, Bát-Nhã-Ba-La-Mật-Đa chỉ có tên. Sách chỉ có tên, Thọ, Tưởng, Hạnh, Thức chỉ có tên. Tất cả các Pháp chỉ có tên. Này xá lợi tử! Giống như ngã chỉ có tên, gọi đó là ngã, nhưng thật ra không thể đắt. Như vậy hữu tình, mạng giả, sanh giả, dưỡng giả, sĩ phu, bổ đặc và la, nói rộng cho đến người biết, người thấy cũng chỉ có cái tên, nghĩa là hữu tình cho đến người thấy, thật không thể đắt. Vì không thể đắt là không. Nó chỉ theo thế tục để mượn là lập ra cái tên khác. Các Pháp cũng vậy, không nên chấp trước. Cho nên Đại Bồ-Tát khi tu hành bát nhã-Ba-La-Mật-Đa, không thấy có ngã cho đến người thấy, cũng không thấy có tánh của tất cả Pháp. Này xá lợi tử! Đại Bồ-Tát tu hành bát nhã-Ba-La-Mật-Đa như thế, ngoài tuệ của Phật-tra thì trí tuệ của tất cả thanh văn, độc giác V, V, không thể nào sánh kịp. Vì sao? Vì đối với tên được gọi đó, Đại Bồ-Tát đều không thể đắt, do không quán thấy nên không chấp trước. Này xá lợi tử! Nếu Đại Bồ-Tát có thể tu hành bát nhã-Ba-La-Mật-Đa sâu xa như vậy, thì gọi là xéo hành bát nhã-Ba-La-Mật-Đa sâu xa. Này xá lợi tử! Giả sử trí tuệ của các đại thanh văn các ông trong cõi châu thiện bộ có trí tuệ nhiều như tre, cỏ, lúa, gạo, mía, mẹ V, V, so với trí tuệ của Bồ-Tát hành bát nhã-Ba-La-Mật-Đa thì trăm phần không bằng một, ngàn phần không bằng một, trăm ngàn phần không bằng một, số phần, toán phần cho đến ổ ba ni sát đạm phần, cực nhỏ, cũng không bằng một. Vì sao? Này xá lợi tử! Vì trí tuệ của đại Bồ-Tát đó có thể làm cho tất cả hữu tình trong mười phương hướng đến Niết Bang. Lại nữa, này xá lợi tử! Một đại Bồ-Tát tu hành bát nhã-Ba-La-Mật-Đa với trí tuệ tu trong một ngày thì trí tuệ của tất cả thanh văn, độc giác không thể sánh kịp. Này xá lợi tử! Vì sao? Này xá lợi tử! Vì trí tuệ của đại Bồ-Tát đó có thể làm cho tất cả hữu tình trong mười phương hướng đến Niết Bang. Lại nữa, này xá lợi tử! Một đại Bồ-Tát tu hành bát nhã-Ba-La-Mật-Đa với trí tuệ tu trong một ngày thì trí tuệ của tất cả thanh văn, độc giác không thể sánh kịp. Này xá lợi tử! Gác bốn đại châu qua một bên, giả sử trí tuệ của các đại thanh văn các ông khắp trong hàng hạ sa thế giới chư Phật trong mười phương nhiều như tre, cỏ, luống, gạo, mẹ, miếng v.v. so với trí tuệ của Bồ-Tát tu hành bát nhã-Ba-La-Mật-Đa thì trăm phần không bằng một, ngàn phần không bằng một, trăm ngàn phần không bằng một, số phần, toán phần cho đến ổ ba ni sát đạm phần cũng không bằng một. Vì sao? Này xá lợi tử! Vì tất cả trí tuệ của Đại Bồ-Tát ấy có thể khiến cho tất cả hữu tình trong mười phương hướng đến Niết Bàn. Lại nữa, này xá lợi tử! Một Đại Bồ-Tát tu hành bát nhã-Ba-La-Mật-Đa với trí tuệ tu trong một ngày thì trí tuệ của tất cả thanh văn, độc giác không thể sánh kịp. Này xá lợi tử! Một Đại Bồ-Tát tu hành bát nhã-Ba-La-Mật-Đa với trí tuệ tu trong một ngày thì trí tuệ của tất cả thanh văn, độc giác không thể sánh kịp. Lại nữa, này xá lợi tử! Một Đại Bồ-Tát tu hành bát nhã-Ba-La-Mật-Đa với trí tuệ tu trong một ngày thì trí tuệ của tất cả thanh văn, độc giác không thể sánh kịp. Lại nữa, này xá lợi tử! Vì sao? Này xá lợi tử! Vì tất cả trí tuệ của Đại Bồ-Tát ấy có thể khiến cho tất cả hữu tình trong mười phương hướng đến Niết Bàn. Lại nữa, này xá lợi tử! Một Đại Bồ-Tát tu hành bát nhã-Ba-La-Mật-Đa với trí tuệ tu trong một ngày thì trí tuệ của tất cả thanh văn, độc giác không thể sánh kịp. Bây giờ, xá lợi tử bạch Phật! Bạch Thế Tôn Tất cả trí tuệ của Thanh Văn Thừa, Dự Lưu, Nhất Lai, Bất Hoạn, A-La-Hẳn, tất cả trí tuệ của độc giác Thừa, tất cả trí tuệ của Đại Bồ-Tát, tất cả trí tuệ của Chiêu Như Lai ứng chánh Đặng Giác, tất cả trí tuệ trên đều không sai khác nhau, không chống trái nhau, không sanh, không diệt, tự tánh nó đều không. Nếu Pháp không sai biệt, không chống trái nhau, không sanh, không diệt, tự tánh đều không, thì lý của Pháp sai biệt ấy không thể đắt. Vậy, vì sao Thế Tôn nói trí tuệ của tất cả thanh văn, độc giác không bằng trí tuệ của một Đại Bồ-Tát tu tập hành bát nhã-Ba-La-Mật-Đa trong một ngày? Phật dạy Này xá lợi tử! Ý ông thế nào? Sự nghiệp, trí tuệ được tu tập trong một ngày của một Đại Bồ-Tát tu hành bát nhã-Ba-La-Mật-Đa so với trí tuệ của tất cả thanh văn, độc giác có tác dụng như vậy không? Xá lợi tử thưa! Bạch Thế Tôn! Không! Phật dạy Này xá lợi tử! Ý ông thế nào? Sự nghiệp, trí tuệ được tu tập trong một ngày của một Đại Bồ-Tát tu hành bát nhã-Ba-La-Mật-Đa có thể phát sanh đầy đủ trí nhất thiết tướng vi diệu, trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, làm lợi ích an lạc cho tất cả hữu tình và giác ngộ tất cả tướng của tất cả Pháp, dùng phương tiện lập ra cảnh giới vô dư y niết bàn cho hết thảy hữu tình. Còn đối với trí tuệ thanh văn, độc giác có tác dụng như vậy không? Xá lợi tử thưa! Bạch Thế Tôn! Không! Phật dạy! Này xá lợi tử! Ý ông thế nào? Tất cả thanh văn và độc giác có suy nghĩ như vậy, ta chính quả vị vô thường chánh đẳng Bồ-Đề, dùng phương tiện an lạc cảnh giới vô dư y niết bàn cho tất cả hữu tình không? Xá lợi tử thưa! Bạch Thế Tôn! Không! Phật dạy! Này xá lợi tử! Ý ông thế nào? Tất cả thanh văn và độc giác có suy nghĩ như vậy, ta sẽ tu hành bố thí, tình giới, an nhẫn, tinh tấn, tình lự, bác nhã ba la mật đa, giáo hóa các loài hữu tình, làm trang nghiêm thanh tình cõi Phật. Viên mãn 10 lực Phật, 4 điều không sợ, 4 sự hiểu biết thông suốt, 18 Pháp Phật bất cộng, chứng đắc quả vị vô thường chánh đẳng Bồ-Đề, dùng phương tiện an lạc vô lượng, vô biên, vô số hữu tình ở cảnh giới vô dư y niết bàn không? Xá lợi tử thưa! Bạch Thế Tôn! Không! Phật dạy! Này xá lợi tử! Các đại Bồ-Tát tu hành bác nhã ba la mật đa đều nghĩ như vậy, ta sẽ tu hành bố thí, tình giới, an nhẫn, tinh tấn, tình lự, bác nhã ba la mật đa, giáo hóa hữu tình, trang nghiêm thanh tình cõi Phật. Viên mãn 10 lực Phật, 4 điều không sợ, 4 sự hiểu biết thông suốt, 18 Pháp Phật bất cộng, chứng đắc quả vị vô thường chánh đẳng Bồ-Đề, dùng phương tiện an lạc vô lượng, vô số, vô biên hữu tình ở cảnh giới vô dư y niết bàn. Này xá lợi tử! Các đại Bồ-Tát tu hành bác nhã ba la mật đa đều nghĩ như vậy, ta sẽ tu hành bố thí, tình giới, an nhẫn, tình lự, bác nhã ba la mật đa, giáo hóa hữu tình, trang nghiêm thanh tình cõi Phật, viên mãn 10 lực Phật, 4 điều không sợ, 4 sự hiểu biết thông suốt, 18 Pháp Phật bất cộng, chứng đắc quả vị vô thường chánh đẳng Bồ-Đề, dùng phương tiện an lạc vô lượng, vô số, vô biên hữu tình ở cảnh giới vô dư y niết bàn. Này xá lợi tử! Ví như mặt trời có ánh sáng rực rỡ, vừa mới mọc liền chiếu khắp châu thiện bộ. Đại Bồ-Tát tu hành bác nhã ba la mật đa cũng vậy, nghĩ như vậy, ta tu 6 Pháp ba la mật đa giáo hóa cho các hữu tình, làm trang nghiêm thanh tình cõi Phật, viên mãn 10 lực Phật, 4 điều không sợ, 4 sự hiểu biết thông suốt, 18 Pháp Phật bất cộng, chứng đắc quả vị vô thường chánh đẳng Bồ-Đề, dùng phương tiện an lạc vô lượng, vô số, vô biên hữu tình ở cảnh giới vô dư y niết bàn. Bây giờ, xá lợi tử Bạch Phật! Bạch Thế Tôn Vì sao Đại Bồ-Tát có thể vượt qua các địa vị thanh văn, đọc giác V.V. có thể chứng đắc địa vị Bồ-Tát bất thối chuyển, làm thanh tình đạo Bồ-Đề? Phật dạy Ngày xá lợi tử Từ khi mới phát tâm tu hành 6 Pháp ba la mật đa, Đại Bồ-Tát luôn trụ vào Pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện nên vượt qua địa vị thanh văn, đọc giác V.V. có thể chứng đắc địa vị Bồ-Tát bất thối chuyển, làm thanh tình đạo Bồ-Đề? Xá lợi tử lại Bạch Phật Bạch Thế Tôn Các Đại Bồ-Tát trụ vào những địa vị nào mà có thể làm ruộng phước chân tịnh cho tất cả thanh văn, đọc giác? Phật dạy Ngày xá lợi tử Từ khi mới phát tâm tu hành 6 Pháp ba la mật đa cho đến lúc ngồi tòa Bồ-Đề, các Đại Bồ-Tát thường làm ruộng phước chân tịnh cho tất cả thanh văn, đọc giác. Vì sao? Ngày xá lợi tử Vì nương vào các Đại Bồ-Tát mà tất cả các Pháp lành xuất hiện ở thế gian. Đó là tất cả 10 thiện nghiệp đạo, 5 giới trận sự, 8 giới trận trụ. 4 tịnh lự, 4 vô lường, 4 định vô sắc, 4 trí thánh đế, 4 niệm trụ, 4 chánh đoạn, 4 thần túc, 5 căng, 5 lực, 7 chi đẳng giác, 8 chi thánh đạo. 4 điều không sợ, 4 sự hiểu biết thông suốt, 10 lực như lai, 6 Pháp ba la mật đa, 18 Pháp Phật bất cộng. Tất cả vô lường, vô số, vô biên Pháp lành như vậy xuất hiện ở thế gian. Nhờ các Pháp lành của Đại Bồ-Tát ấy mà thế gian có đại tộc sát đế lợi, đại tộc ba la môn, đại tộc trưởng giả, đại tộc cư sĩ. Trời Tứ Đại Thiên Vương chúng cho đến Trời Tha Hóa Tự Tại, Trời Phạm chúng cho đến Trời Đại Phạm, Trời Quang cho đến Trời Cực Quang Tình, Trời Tình cho đến Trời Điến Tình, Trời Quảng cho đến Trời Quảng Quả, Trời Vô Tưởng Hữu Tình, Trời Vô Phiền cho đến Trời Sách Trú Cánh, Trời Không Vô Biên Xứ cho đến Trời Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ xuất hiện ra đời. Lại nhờ các Pháp lành của Bồ-Tát nên có Dự Lưu, Nhất Lai, Bất Hoàng, A-La-Hán, Độc Giác, Bồ-Tát và các Đức như Lai ứng chánh Đặng Giác xuất hiện trên thế gian. Bây giờ, xá lợi tử lại bạch Phật. Bạch Thế Tôn Các Đại Bồ-Tát có cần làm thanh tịnh ruộng phước tự thân nữa không? Phật dạy Này xá lợi tử! Các Đại Bồ-Tát không cần làm thanh tịnh ruộng phước tự thân nữa. Vì sao? Vì đã hoàn toàn thanh tịnh rồi. Nghĩa là thế nào? Này xá lợi tử! Vì các Đại Bồ-Tát là Đại Thí Chủ, bố thí cho các hữu tình rất nhiều Pháp lành thuộc thế gian và xuất thế gian, nhiều bố thí cho hữu tình 10 thiện nhiệt đạo, 5 giới cận sự, 8 giới cận trụ, 4 tịnh lự, 4 vô lượng, 4 định vô sắc, 4 trí thánh đế, 4 niệm trụ, 4 chánh đoạn, 4 thần túc, 5 căng, 5 lực, 7 chi đẳng giác, 8 chi thánh đạo, 10 lực như lai, 4 điều không sợ, 4 sự hiểu biết không suốt, 6 Pháp ba la mật đa, 18 Pháp Phật bất cộng, bố thí Pháp lành vô lượng, vô số, vô biên như vậy nên nói Bồ-Tát là Đại Thí Chủ. Do đây mà Bồ-Tát đã làm thanh tịnh ruộng Phước Tự Thân, rồi phát triển vô lượng Phước Đức ở thế gian. Khi ấy, xá lợi tử Bạch Phật. Bạch Thế Tôn Các Đại Bồ-Tát phải tương ưng với những Pháp nào mà nói tương ưng với bát nhã ba la mật đa? Phật dạy Này xá lợi tử! Các Đại Bồ-Tát cùng tương ưng với sắc không, nên nói tương ưng với bát nhã ba la mật đa. Cùng tương ưng với thọ, tưởng, hành, thức không, nên nói tương ưng với bát nhã ba la mật đa. Các Đại Bồ-Tát cùng tương ưng với nhãn xứ không, nên nói tương ưng với bát nhã ba la mật đa. Cùng tương ưng với nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý xứ không, nên nói tương ưng với bát nhã ba la mật đa. Các Đại Bồ-Tát cùng tương ưng với sắc xứ không, nên nói tương ưng với bát nhã ba la mật đa. Cùng tương ưng với thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ không, nên nói tương ưng với bát nhã ba la mật đa. Các Đại Bồ-Tát cùng tương ưng với nhãn giới không, nên nói tương ưng với bát nhã ba la mật đa. Cùng tương ưng với nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý giới không, nên nói tương ưng với bát nhã ba la mật đa. Các Đại Bồ-Tát cùng tương ưng với sắc giới không, nên nói tương ưng với bát nhã ba la mật đa. Cùng tương ưng với thanh, hương, vị, xúc, pháp giới không, nên nói tương ưng với bát nhã ba la mật đa. Các Đại Bồ-Tát cùng tương ưng với nhãn thức giới không, nên nói tương ưng với bát nhã ba la mật đa. Cùng tương ưng với nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý thức giới không, nên nói tương ưng với bát nhã ba la mật đa. Các Đại Bồ-Tát cùng tương ưng với thánh đế khổ nên nói tương ưng với bát nhã ba la mật đa. Cùng tương ưng với thánh đế tập, diệt, đạo không, nên nói tương ưng với bát nhã ba la mật đa. Các Đại Bồ-Tát cùng tương ưng với vô minh không, nên nói tương ưng với bát nhã ba la mật đa. Cùng tương ưng với hành, thức, danh sách, lục sứ, xúc, thọ, ái, thủ, thủ, sanh, lão tử, sầu, thang, khổ, ương, não không, nên nói tương ưng với bát nhã ba la mật đa. Các Đại Bồ-Tát cùng tương ưng với tất cả Pháp không, nên nói tương ưng với bát nhã ba la mật đa. Cùng tương ưng với Pháp hữu vi, vô vi không, nên nói tương ưng với bát nhã ba la mật đa. Các Đại Bồ-Tát cùng tương ưng với bản tánh không, nên nói tương ưng với bát nhã ba la mật đa. Này xá lợi tử! Các Đại Bồ-Tát cùng tương ưng với bảy Pháp không như vậy nên nói tương ưng với bát nhã ba la mật đa. Này xá lợi tử! Các Đại Bồ-Tát khi tương ưng với bảy Pháp không như vậy mà không thấy sách có tương ưng hay không tương ưng, không thấy thọ, tưởng, hành, thức có tương ưng hay không tương ưng. Không thấy sách là Pháp sanh hay Pháp diệt, không thấy thọ, tưởng, hành, thức là Pháp sanh hay Pháp diệt. Không thấy sách là Pháp nhiễm hay Pháp tỉnh, không thấy thọ, tưởng, hành, thức là Pháp nhiễm hay Pháp tỉnh. Không thấy sách hợp với thọ, không thấy thọ hợp với tưởng, không thấy tưởng hợp với hành, không thấy hành hợp với thức. Vì sao? Này xá lợi tử! Không có một Pháp nhỏ nào mà hợp với Pháp, vì bản tánh tất cả Pháp đều không. Này xá lợi tử! Các sách không chẳng phải là sách, các thọ, tưởng, hành, thức không chẳng phải là thọ, tưởng, hành, thức. Vì sao? Này xá lợi tử! Vì các sách không chẳng phải là tưởng biến đổi và ngăn ngại. Các thọ không chẳng phải là tưởng lãnh nạp. Các tưởng không chẳng phải là tưởng nắm giữ, tưởng tượng. Các hành không chẳng phải là tưởng tạo tác. Các hành thức chẳng phải là tưởng liễu biệt. Này xá lợi tử! Sách chẳng khác không, không chẳng khác sách. Sách tức là không, không tức là sách. Thọ, tưởng, hành, thức cũng đều như vậy. Này xá lợi tử! Tưởng không của các pháp ấy đều không sanh không diệt, không nhiễm, không tịnh, không tăng, không giảm, chẳng phải quá xứ, chẳng phải vị lai, chẳng phải hiện tại. Như vậy, trong cái không đó, không có sách, không có thọ, tưởng, hành, thức. Không có nhãn xứ, không có nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý xứ. Không có sách xứ, không có có thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ. Không nhãn giới, không có nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý giới. Không có sách giới, không có thanh, hương, vị, xúc, pháp giới. Không có nhãn thức giới, không có nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý thức giới. Không có địa giới, không có thủy, hỏa, phòng, không, thức giới. Không có vô minh cũng không có vô minh diệt. Không có hành, thức, danh sách, luật sứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh lão tử, không có hành cho đến lão tử diệt. Không có thánh đế phổ, không có thánh đế tập, diệt, đạo. Không có đắc, không có hiện quán. Không có dự lưu, không có quả dự lưu. Không có nhất lai, không có quả nhất lai. Không có bất hoàng, không có quả bất hoàng. Không có A-la-háng, không có quả A-la-háng. Không có độc giác, không có độc giác Bồ-đề. Không có Bồ-Tát, không có hành của Bồ-Tát. Không có chánh đẳng giác, không có chánh đẳng giác Bồ-đề. Này xá lợi tử! Vì Đại Bồ-Tát tương ưng với Pháp như vậy nên nói tương ưng với Bát Nhã Ba-la-mật-đa. Lại nữa, này xá lợi tử! Các Đại Bồ-Tát tu hành Bát Nhã Ba-la-mật-đa, không thấy bổ thí Ba-la-mật-đa có tương ưng hay không tương ưng. Không thấy tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã Ba-la-mật-đa có tương ưng hay không tương ưng. Không thấy sát có tương ưng hay không tương ưng, không thấy thọ, tưởng, hành, thước có tương ưng hay không tương ưng. Không thấy nhãn sứ có tương ưng hay không tương ưng, không thấy nhĩ, tỉ, thiệt, thần, ý sứ có tương ưng hay không tương ưng. Không thấy sát sứ có tương ưng hay không tương ưng, không thấy thanh, hương, vị, súc, pháp sứ có tương ưng hay không tương ưng. Không thấy nhãn giới có tương ưng hay không tương ưng, không thấy nhĩ, tỉ, thiệt, thần, ý giới có tương ưng hay không tương ưng. Không thấy sát giới có tương ưng hay không tương ưng, không thấy thanh, hương, vị, súc, pháp giới có tương ưng hay không tương ưng. Không thấy nhãn thức giới có tương ưng hay không tương ưng, không thấy nhĩ, tỉ, thiệt, thần, ý thức giới có tương ưng hay không tương ưng. Không thấy thánh đế khổ có tương ưng hay không tương ưng, không thấy thánh đế tập, diệt, đạo có tương ưng hay không tương ưng. Không thấy vô mình có tương ưng hay không tương ưng, không thấy hành, thức, danh sát, luật sứ, súc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử có tương ưng hay không tương ưng. Không thấy bốn niệm trụ có tương ưng hay không tương ưng. Không thấy bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căng, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo có tương ưng hay không tương ưng. Không thấy sáu phép thần thông có tương ưng hay không tương ưng. Không thấy mười lực Phật có tương ưng hay không tương ưng. Không thấy bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám Pháp Phật bất cộng có tương ưng hay không tương ưng. Không thấy trí nhất thiết tấn vi diệu có tương ưng hay không tương ưng, không thấy trí thất thiết trí có tương ưng hay không tương ưng. Này xá lợi tử! Các đại Bồ Tát tu hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa tương ưng với những Pháp như vậy nên nói tương ưng với Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa. Lại nữa, này xá lợi tử! Các đại Bồ Tát tu hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa không quán không hợp với không, cũng không tương ưng với không. Không quán vô tướng hợp với vô tướng, cũng không tương ưng với vô tướng. Không quán vô nguyện hợp với vô nguyện, cũng không tương ưng với vô nguyện. Vì sao? Này xá lợi tử! Vì không, vô tướng, vô nguyện không hợp không phải hợp, cũng không tương ưng chẳng phải tương ưng. Này xá lợi tử! Các đại Bồ Tát tu hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa tương ưng với Pháp như vậy nên nói tương ưng với Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa. Lại nữa, này xá lợi tử! Các đại Bồ Tát tu hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa đã nhập vào tự tướng không của tất cả Pháp, không quán sát có hợp hay tang, không quán thọ, tưởng, hành, thức có hợp hay tang. Không quán sát có hợp hay tang với khoảng trước. Vì sao? Vì không thấy khoảng trước. Không quán sát có hợp hay tang với khoảng sau. Vì sao? Vì không thấy khoảng sau. Không quán sát có hợp hay tang với khoảng giữa. Vì sao? Vì không thấy khoảng giữa. Không quán thọ, tưởng, hành, thức có hợp hay tang với khoảng trước. Vì sao? Vì không thấy khoảng trước. Không quán thọ, tưởng, hành, thức có hợp hay tang với khoảng sau. Vì sao? Vì không thấy khoảng sau. Không quán thọ, tưởng, hành, thức có hợp hay tang với khoảng giữa. Vì sao? Vì không thấy khoảng giữa. Này xá lợi tử! Các Đại Bồ-Tát tu hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa tương ưng với Pháp như vậy nên nói tương ưng với Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa. Lại nữa, này xá lợi tử! Các Đại Bồ-Tát không quán khoảng trước hợp hay tang với khoảng sau. Không quán khoảng trước hợp hay tang với khoảng giữa. Không quán khoảng sau hợp hay tang với khoảng trước. Không quán khoảng sau hợp hay tang với khoảng giữa. Không quán khoảng giữa hợp hay tang với khoảng trước. Không quán khoảng giữa hợp hay tang với khoảng sau. Không quán khoảng trước hợp hay tang với khoảng sau, khoảng giữa. Không quán khoảng giữa hợp hay tang với khoảng trước, khoảng sau. Không quán khoảng trước, khoảng sau, khoảng giữa hợp hay tang. Vì sao? Vì ba đời đều không. Này xá lợi tử! Các Đại Bồ-Tát tu hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa tương ưng với Pháp như vậy nên nói tương ưng với Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa. Lại nữa, này xá lợi tử! Các Đại Bồ-Tát tu hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa không quán trí nhất thiết hợp hay tang với quá khứ. Vì sao? Vì quá khứ còn không thấy thì làm sao quán trí nhất thiết hợp hay tang với quá khứ? Không quán trí nhất thiết hợp hay tang với vị Lai. Vì sao? Vì vị Lai còn không thấy thì làm sao quán trí nhất thiết hợp hay tang với vị Lai? Không quán trí nhất thiết hợp hay tang với hiện tại. Vì sao? Vì hiện tại còn không thấy thì làm sao quán trí nhất thiết hợp hay tang với hiện tại? Không quán trí nhất thiết hợp hay tang với sắc. Vì sao? Vì sắc còn không thấy, làm sao quán trí nhất thiết hợp hay tang với sắc? Không quán trí nhất thiết hợp hay tang với thọ, tưởng, hành, thức. Vì sao? Vì thọ, tưởng, hành, thức còn không thấy, làm sao quán trí nhất thiết hợp hay tang với thọ, tưởng, hành, thức? Không quán trí nhất thiết hợp hay tang với nhãn xứ? Vì sao? Vì nhãn xứ còn không thấy, làm sao quán trí nhất thiết hợp hay tang với nhãn xứ? Không quán trí nhất thiết hợp hay tang với nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý xứ? Vì sao? Vì nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý xứ còn không thấy, làm sao quán trí nhất thiết hợp hay tang với nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý xứ? Không quán trí nhất thiết hợp hay tang với sắc xứ? Vì sao? Vì sắc xứ còn không thấy, làm sao quán trí nhất thiết hợp hay tang với sắc xứ? Không quán trí nhất thiết hợp hay tang với thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ? Vì sao? Vì thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ còn không thấy, làm sao quán trí nhất thiết hợp hay tang với thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ? Không quán trí nhất thiết hợp hay tang với nhãn giới? Vì sao? Vì nhãn giới còn không thấy, làm sao quán trí nhất thiết hợp hay tang với nhãn giới? Không quán trí nhất thiết hợp hay tang với nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý giới? Vì sao? Vì nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý giới còn không thấy, làm sao quán trí nhất thiết hợp hay tang với nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý giới? Không quán trí nhất thiết hợp hay tang với sắc giới? Vì sao? Vì sắc giới còn không thấy, làm sao quán trí nhất thiết hợp hay tang với sắc giới? Không quán trí nhất thiết hợp hay tang với thanh, hương, vị, xúc, pháp giới? Vì sao? Vì thanh, hương, vị, xúc, pháp giới còn không thấy, làm sao quán trí nhất thiết hợp hay tang với thanh, hương, vị, xúc, pháp giới? Không quán trí nhất thiết hợp hay tang với nhãn thức giới? Vì sao? Vì nhãn thức giới còn không thấy, làm sao quán trí nhất thiết hợp hay tang với nhãn thức giới? Không quán trí nhất thiết hợp hay tang với nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý thức giới? Vì sao? Vì nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý thức giới còn không thấy, làm sao quán trí nhất thiết hợp hay tang với nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý thức giới có hợp hay tang? Không quán trí nhất thiết hợp hay tang với thánh đế khổ? Vì sao? Vì thánh đế khổ còn không thấy, làm sao quán trí nhất thiết hợp hay tang với thánh đế khổ? Không quán trí nhất thiết hợp hay tang với thánh đế tập, diệt, đạo? Vì sao? Vì thánh đế tập, diệt, đạo còn không thấy, làm sao quán trí nhất thiết hợp hay tang với thánh đế tập, diệt, đạo có hợp hay tang? Không quán trí nhất thiết hợp hay tang với vô minh? Vì sao? Vì vô minh còn không thấy, làm sao quán trí nhất thiết hợp hay tang với vô minh? Không quán trí nhất thiết hợp hay tang với hành, thức, danh sách, luật sứ, xuất, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử? Vì sao? Vì hành cho đến lão tử còn không thấy, làm sao quán trí nhất thiết hợp hay tang với hành cho đến lão tử? Không quán trí nhất thiết hợp hay tang với bố thí Ba-la-mật-đa? Vì sao? Vì bố thí Ba-la-mật-đa còn không thấy, làm sao quán trí nhất thiết hợp hay tang với bố thí Ba-la-mật-đa? Không quán trí nhất thiết hợp hay tang với tỉnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tỉnh lự, bát nhã Ba-la-mật-đa? Vì sao? Vì tỉnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tỉnh lự, bát nhã Ba-la-mật-đa còn không thấy, làm sao quán trí nhất thiết hợp hay tang với tỉnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tỉnh lự, bát nhã Ba-la-mật-đa? Không quán trí nhất thiết hợp hay tang với bốn niệm trụ? Vì sao? Vì bốn niệm trụ còn không thấy, làm sao quán trí nhất thiết hợp hay tang với bốn niệm trụ? Không quán trí nhất thiết hợp hay tang với bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căng, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo? Vì sao? Vì bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo còn không thấy, làm sao quán trí nhất thiết hợp hay tang với bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo? Không quán trí nhất thiết hợp hay tang với sáu phép thần thông? Vì sao? Vì sáu phép thần thông còn không thấy, làm sao quán trí nhất thiết hợp hay tang với sáu phép thần thông? Không quán trí nhất thiết hợp hay tang với mười lực Phật? Vì sao? Vì mười lực Phật còn không thấy, làm sao quán trí nhất thiết hợp hay tang với mười lực Phật? Không quán trí nhất thiết hợp hay tang với bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám Pháp Phật bất trọng? Vì sao? Vì bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám Pháp Phật bất trọng còn không thấy, làm sao quán trí nhất thiết hợp hay tang với bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám Pháp Phật bất trọng có hợp hay tang? Không quán trí nhất thiết hợp hay tang với Phật, cũng không quán Phật hợp hay tang với trí nhất thiết. Vì sao? Vì trí nhất thiết tức là Phật, Phật tức là trí nhất thiết. Lại nữa, này xá lợi tử! Các đại Bồ Tát tu hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa tương ưng với Pháp như vậy nên nói tương ưng với Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa. Lại nữa, này xá lợi tử! Các đại Bồ Tát tu hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa không chấp chức sắc là hữu hay phi hữu. Không chấp chức sắc là vui hay khổ. Không chấp chức sắc là vui hay khổ. Không chấp chức sắc là vui hay khổ. Không chấp chức sắc là vui hay khổ. Không chấp chức sắc là vui hay khổ. Không chấp chức sắc là vui hay khổ. Không chấp chức sắc là vui hay khổ. Không chấp chức sắc là vui hay khổ. Không chấp chức sắc là vui hay khổ. Không chấp chức sắc là vui hay khổ. Không chấp chức sắc là vui hay khổ. Không chấp chức sắc là vui hay khổ. Không chấp chức sắc là vui hay khổ. Không chấp chức sắc là vui hay khổ. Không chấp chức sắc là vui hay khổ. Không chấp chức sắc là vui hay khổ. Không chấp chức sắc là vui hay khổ. Không chấp chức sắc là vui hay khổ. Không chấp chức sắc là vui hay khổ. Không chấp chức sắc là vui hay khổ. Không chấp chức sắc là vui hay khổ. Không chấp chức sắc là vui hay khổ. Không chấp chức sắc là vui hay khổ. Không chấp chức sắc là vui hay khổ. Không chấp chức sắc là vui hay khổ. Không chấp chức sắc là vui hay khổ. Không chấp chức sắc là vui hay khổ. Không chấp chức sắc là vui hay khổ. Không chấp chức sắc là vui hay khổ. Không chấp chức sắc là vui hay khổ. Không chấp chức sắc là vui hay khổ. Không chấp chức sắc là vui hay khổ. Không chấp chức sắc là vui hay khổ. Không chấp chức sắc là vui hay khổ. Không chấp chức sắc là vui hay khổ. Không chấp chức sắc là vui hay khổ. Không chấp chức sắc là vui hay khổ. Không chấp chức sắc là vui hay khổ. Không chấp chức sắc là vui hay khổ. Các đại Bồ-Tát tu hành bác nhã Ba-la-mật-đa. Không nghĩ như vậy, ta hành bác nhã Ba-la-mật-đa. Không nghĩ như vậy, ta không hành bác nhã Ba-la-mật-đa. Không nghĩ như vậy, ta hành hoặc không hành bác nhã Ba-la-mật-đa. Không nghĩ như vậy, ta chẳng hành cũng chẳng phải không hành bác nhã Ba-la-mật-đa. Không nghĩ như vậy, ta chẳng hành cũng chẳng phải không hành bác nhã Ba-la-mật-đa. Này xá lợi tử! Các đại Bồ-Tát tu hành bác nhã Ba-la-mật-đa tương ưng với Pháp như vậy nên nói tương ưng với bác nhã Ba-la-mật-đa. Các đại Bồ-Tát tu hành bác nhã Ba-la-mật-đa tương ưng với Pháp như vậy nên nói tương ưng với bác nhã Ba-la-mật-đa. Các đại Bồ-Tát tu hành bác nhã Ba-la-mật-đa tương ưng với Pháp như vậy nên nói tương ưng với bác nhã Ba-la-mật-đa. Này xá lợi tử! Các đại Bồ-Tát tu hành bác nhã Ba-la-mật-đa tương ưng với Pháp như vậy nên nói tương ưng với bác nhã Ba-la-mật-đa. Các đại Bồ-Tát tu hành bác nhã Ba-la-mật-đa tương ưng với Pháp như vậy nên nói tương ưng với bác nhã Ba-la-mật-đa. Các đại Bồ-Tát tu hành bác nhã Ba-la-mật-đa tương ưng với Pháp như vậy nên nói tương ưng với bác nhã Ba-la-mật-đa. Lại nữa, này xá lợi tử! Các đại Bồ-Tát khi tu hành bác nhã Ba-la-mật-đa, không vì bố thí Ba-la-mật-đa mà tu hành bác nhã Ba-la-mật-đa, không vì tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tình lự, bác nhã Ba-la-mật-đa mà tu hành bác nhã Ba-la-mật-đa. Không vì nhập vào chánh quyết định của Bồ-Tát mà tu hành bác nhã Ba-la-mật-đa, không vì đắc địa vị Bồ-Tát bất thối chuyển mà tu hành bác nhã Ba-la-mật-đa. Không vì thành tựu các hữu tình mà tu hành bác nhã Ba-la-mật-đa, không vì trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật mà tu hành bác nhã Ba-la-mật-đa. Không vì bốn niệm trụ mà tu hành bác nhã Ba-la-mật-đa, không vì bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căng, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo mà tu hành bác nhã Ba-la-mật-đa. Không vì mười lực Phật mà tu hành bác nhã Ba-la-mật-đa, không vì bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám Pháp Phật bất cộng mà tu hành bác nhã Ba-la-mật-đa. Không vì Pháp nội không mà tu hành bác nhã Ba-la-mật-đa, không vì Pháp ngoại không, nội ngoại không, đại không, không không, thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cánh, rốt tráo không, vô tế không, tán vô tán không, bản tính không, tự cộng tướng không, nhất thiết Pháp không, vô tính không, vô tính tự tính không mà tu hành bác nhã Ba-la-mật-đa. Không vì chân như mà tu hành bác nhã Ba-la-mật-đa, không vì Pháp giới, Pháp tánh, thực tế mà tu hành bác nhã Ba-la-mật-đa. Vì sao? Này xá lợi tử! Các đại Bồ-Tát khi tu hành bác nhã Ba-la-mật-đa vì không thấy sự sai khác của các Pháp tánh. Này xá lợi tử! Các đại Bồ-Tát tu hành bác nhã Ba-la-mật-đa tương ưng với Pháp như vậy nên nói tương tương với bác nhã Ba-la-mật-đa. Lại nữa, này xá lợi tử! Các đại Bồ-Tát tu hành bác nhã Ba-la-mật-đa không vì thiên nhãn trí chính thông mà tu hành bác nhã Ba-la-mật-đa, không vì thiên nhĩ, tha tâm, trúc trụ, tùy niệm, thân cảnh, lậu tận trí chính thông mà tu hành bác nhã Ba-la-mật-đa. Vì sao? Này xá lợi tử! Vì khi các đại Bồ-Tát tu hành bác nhã Ba-la-mật-đa không thấy bác nhã Ba-la-mật-đa, thì làm sao thấy sáu phép thần thông của đại Bồ-Tát và các đức như Lai ứng chánh đẳng giác? Này xá lợi tử! Các đại Bồ-Tát tu hành bác nhã Ba-la-mật-đa tương ưng với Pháp như vậy nên nói tương tương với bác nhã Ba-la-mật-đa. Lại nữa, này xá lợi tử! Các đại Bồ-Tát tu hành bác nhã Ba-la-mật-đa, không nghĩ như vậy, ta dùng thiên nhãn trí chính thông mà quán khắp tất cả hữu tình chết đầy sanh kia có từng phẩm loại khác nhau trong hàng hạ sa số thế giới chư Phật khắp mười phương. Không nghĩ như vậy, ta dùng thiên nhãn trí chính thông nghe những âm thanh viên biệt của tất cả hữu tình trong hàng hạ sa số thế giới chư Phật khắp mười phương. Không nghĩ như vậy, ta dùng tha tâm trí chính thông biết những ý nghĩ sai khác thuộc tâm và tâm sở của tất cả hữu tình trong hàng hạ sa số thế giới chư Phật ở mười phương. Không nghĩ như vậy, ta dùng túc trụ tùy niệm trí chính thông nhớ kiếp trước sai khác của tất cả hữu tình trong hàng hạ sa số thế giới chư Phật ở mười phương. Không nghĩ như vậy, ta dùng thân cảnh trí chính thông đến hàng hạ sa số thế giới chư Phật trong mười phương để giảng nói chánh Pháp cho các hữu tình. Không nghĩ như vậy, ta dùng lậu tận trí chính thông biết rõ tất cả hữu tình trong hàng hạ sa số thế giới chư Phật ở mười phương lậu đã tận hay chưa tận. Này xá lợi tử! Các Đại Bồ-Tát tu hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa tương ưng với Pháp như vậy nên nói tương ưng với Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa. Lại nữa, này xá lợi tử! Đại Bồ-Tát tu hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa khi tương ưng với Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa, dùng phương tiện thiện xảo có thể an lập vô lượng, vô số, vô biên hữu tình vào cảnh giới vô dư y niết bàn, làm cho tất cả ác ma và quyến thủ của chúng không làm hại được, tất cả phiền não đều được diệt trừ, mong muốn những việc ở đời được thanh tựu, được tất cả như lai ứng chánh đẳng giác và các Đại Bồ-Tát trong hàng hạ xa số thế giới ở mười phương hộ niềm, không để cho Bồ-Tát ấy thối lui rơi trở lại địa vị thanh. Văn, Độc Giác Đại Bồ-Tát ấy được thanh Văn, Độc Giác, Trời Tứ Đại Thiên Vương chúng cho đến Trời Tha Hóa Tự Tại, Trời Phạm chúng cho đến Trời Phạm Thiên, Trời Quang cho đến Trời Cực Quang Tịnh, Trời Tịnh cho đến Trời Biến Tịnh, Trời Quảng cho đến Trời Quảng Quả, Trời Vô Phiền cho đến Trời Sát Cứu Cánh ủng hộ và bảo vệ. Đại Bồ-Tát ấy làm những việc gì không bao giờ bị chướng ngại mà lại mau thành tựu, tất cả bệnh khổ của thân tâm đều được tiêu trừ, giả sử có nghiệp tội, họ quả báo ở đời tương lai, lại được chuyển chiều quả báo nhẹ ở hiện tại. Vì sao? Này xá lợi tử! Vì Đại Bồ-Tát ấy có lòng từ bi sắp tất cả hữu tình. Này xá lợi tử! Đại Bồ-Tát ấy tu hành bác nhã Ba-la-mật-đa có đầy đủ đại thế lực, dự dụng gia hành, thì có thể phát sanh tất cả môn Đà-la-ni thu thắng, tất cả môn Tam-ma-địa thu thắng. Nhờ thế lực này tùy ý phát sanh tất cả công đức thế gian hay phức thế gian, sanh ra nơi nào thường được gặp, tôn thời kiêu Phật thế tôn và các Đại Bồ-Tát cho đến khi chứng quả vị vô thường chánh đẳng Bồ-đệ. Trong thời gian ấy, Đại Bồ-Tát không bao giờ liệt Phật và chúng Đại Bồ-Tát. Xá lợi tử nên biết! Đại Bồ-Tát ấy tu hành bác nhã Ba-mật-đa tương ưng với bác nhã Ba-la-mật-đa nên được vô lượng, vô số, vô biên bất khả tương nghị công đức lợi ích thu thắng như vậy. Lại nữa, này xá lợi tử! Các Đại Bồ-Tát tu hành bác nhã Ba-la-mật-đa, không nghĩ như vậy, có Pháp tương ưng hoặc không tương tương, bằng nhau hoặc không bằng nhau với Pháp. Vì sao? Này xá lợi tử! Vì Đại Bồ-Tát ấy không thấy có Pháp nào tương ưng hoặc không tương ưng, bằng hoặc không bằng với Pháp. Này xá lợi tử! Các Đại Bồ-Tát tu hành bác nhã Ba-la-mật-đa tương ưng với Pháp như vậy nên nói tương ưng với bác nhã Ba-la-mật-đa.