Details
Nothing to say, yet
Big christmas sale
Premium Access 35% OFF
Nothing to say, yet
Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa Tập 20 Quyện 489 3. Phẩm Thiện Hiện 08 Vì sao gọi là Phổ Siêu Nhất Thiết Tam Ma Địa? Vì khi Trụ Tam Ma Địa này sẽ vượt qua hết các pháp của hữu tình trong ba cõi nên gọi là Phổ Siêu Nhất Thiết Tam Ma Địa. Vì sao gọi là Quyết Phán Nhất Thiết Tam Ma Địa? Vì khi Trụ Tam Ma Địa này có thể quyết định các pháp hữu tình nên gọi là Quyết Phán Nhất Thiết Tam Ma Địa. Vì sao gọi là Tán Do Dự Tam Ma Địa? Vì khi Trụ Tam Ma Địa này có thể làm tàn biến hết tất cả do dự đối với các đảng trì và tất cả pháp nên gọi là Tán Do Dự Tam Ma Địa. Vì sao gọi là Vô Sở Trụ Tam Ma Địa? Vì khi Trụ Tam Ma Địa này không thấy các pháp có chỗ trụ nên gọi là Vô Sở Trụ Tam Ma Địa. Vì sao gọi là Nhất Tướng Trang nghiêm Tam Ma Địa? Vì khi Trụ Tam Ma Địa này không thấy các pháp có một tướng nhỏ nào nên gọi là Nhất Tướng Trang nghiêm Tam Ma Địa. Vì sao gọi là Dẫn Pháp Hành Tướng Tam Ma Địa? Vì khi Trụ Tam Ma Địa này có thể dẫn pháp các loại hành tướng đối với các đảng trì và tất cả pháp nhưng hoàn toàn không thấy có năng và sở dẫn pháp nên gọi là Dẫn Pháp Hành Tướng Tam Ma Địa. Vì sao gọi là Nhất Hành Tướng Tam Ma Địa? Vì khi Trụ Tam Ma Địa này thấy các đảng trì không có hai hành tướng nên gọi là Nhất Hành Tướng Tam Ma Địa. Vì sao gọi là Ly Hành Tướng Tam Ma Địa? Vì khi Trụ Tam Ma Địa này thấy các đảng trì hoàn toàn không có hành tướng nên gọi là Ly Hành Tướng Tam Ma Địa. Vì sao gọi là Diệu Hành Tướng Tam Ma Địa? Vì khi Trụ Tam Ma Địa này sẽ làm cho hành tướng của các đảng trì ví diệu và lệ bỏ các khí luận nên gọi là Diệu Hành Tướng Tam Ma Địa. Vì sao gọi là Đạt Chư Hữu Để Tán Hoại Tam Ma Địa? Vì khi Trụ Tam Ma Địa này đạt được trí thông đạt như thật ngộ nhập các đảng trì và tất cả Pháp. Được ngộ nhập rồi sẽ thông đạt sự tán hoại của các hữu Pháp khiến chúng không còn chỗ nào sóc cả nên gọi là Đạt Chư Hữu Để Tán Hoại Tam Ma Địa. Vì sao gọi là Bảo Kiên Cố Tam Ma Địa? Vì khi Trụ Tam Ma Địa này thấy Phật, Pháp, Tăng không thể phá hoại được vì đồng vô tướng nên gọi là Bảo Kiên Cố Tam Ma Địa. Vì sao gọi là Giải thoát âm thanh văn tự Tam Ma Địa? Vì khi Trụ Tam Ma Địa này thấy các đảng trì vắng lặng giải thoát tất cả tướng âm thanh văn tự nên gọi là Giải thoát âm thanh văn tự Tam Ma Địa. Vì sao gọi là Nhập Thi Thiết Ngữ Ngôn Tam Ma Địa? Vì khi Trụ Tam Ma Địa này ngộ nhập các Pháp kiến lập, thi thiết, ngữ ngôn, không chấp trước, không nhan ngại của tất cả đảng trì nên gọi là Nhập Thi Thiết Ngữ Ngôn Tam Ma Địa. Vì sao gọi là Tự Xí Nhiên Tam Ma Địa? Vì khi Trụ Tam Ma Địa này chiếu sáng các đảng trì với ánh sáng hoai nghiêm nên gọi là Tự Xí Nhiên Tam Ma Địa. Vì sao gọi là Nghiêm Tịnh Tướng Tam Ma Địa? Vì khi Trụ Tam Ma Địa này có thể làm thanh tịnh trang nhiên tất cả tướng định nên gọi là Nghiêm Tịnh Tướng Tam Ma Địa. Vì sao gọi là Vô Tiêu Xí Tam Ma Địa? Vì khi Trụ Tam Ma Địa này không thấy dấu hiệu đối với các đảng trì nên gọi là Vô Tiêu Xí Tam Ma Địa. Vì sao gọi là Cụ Diệu Tướng Tam Ma Địa? Vì khi Trụ Tam Ma Địa này thấy diệu tướng các định hoàn toàn đầy đủ nên gọi là Cụ Diệu Tướng Tam Ma Địa. Vì sao gọi là Bất Khỉ Nhất Thiết Khổ Lạc Tam Ma Địa? Vì khi Trụ Tam Ma Địa này không thích quan sát tướng khổ vui của các đảng trì nên gọi là Bất Khỉ Nhất Thiết Khổ Lạc Tam Ma Địa. Vì sao gọi là Vô Tận Hành Tướng Tam Ma Địa? Vì khi Trụ Tam Ma Địa này không thấy hành tướng các định có chỗ tận nên gọi là Vô Tận Hành Tướng Tam Ma Địa. Vì sao gọi là Cụ Tổng Trì Tam Ma Địa? Vì khi Trụ Tam Ma Địa này có thể giữ gìn thắng sự các định một cách bao quát nên gọi là Cụ Tổng Trì Tam Ma Địa. Vì sao gọi là Nhất Phục Nhất Thiết Chánh Tánh Tà Tánh Tam Ma Địa? Vì khi Trụ Tam Ma Địa này đối với các đảng trì chánh tánh, tà tánh nhất phục các kiến khiến chúng chẳng khởi nên gọi là Nhất Phục Nhất Thiết Chánh Tánh Tà Tánh Tam Ma Địa. Vì sao gọi là Tức Vi Thuận Tam Ma Địa? Vì khi Trụ Tam Ma Địa này hoàn toàn không thấy có tướng nhịch và thuận đối với các đảng trì và tất cả pháp nên gọi là Tức Vi Thuận Tam Ma Địa. Vì sao gọi là Ly Ái Tắn Tam Ma Địa? Vì khi Trụ Tam Ma Địa này hoàn toàn không có tướng thương ghét trong các đảng trì và tất cả pháp nên gọi là Ly Ái Tắn Tam Ma Địa. Vì sao gọi là Vô Cấu Minh Tam Ma Địa? Vì khi Trụ Tam Ma Địa này hoàn toàn không thấy tướng cấu ế và tướng sáng suốt nên gọi là Vô Cấu Minh Tam Ma Địa. Vì sao gọi là Cụ Kiên Cố Tam Ma Địa? Vì khi Trụ Tam Ma Địa này làm cho các đảng trì đều được kiên cố nên gọi là Cụ Kiên Cố Tam Ma Địa. Vì sao gọi là Mãn Nguyệt Tịnh Quang Tam Ma Địa? Vì khi Trụ Tam Ma Địa này làm cho các đảng trì tăng thêm công đức như ánh sáng trăng tròn, làm nước biển tăng thêm nên gọi là Mãn Nguyệt Tịnh Quang Tam Ma Địa. Vì sao gọi là Đại Trang Nhiêm Tam Ma Địa? Vì khi Trụ Tam Ma Địa này làm cho các đảng trì thành tựu các loại ví diệu nhiệm màu hy hữu, Đại Trang Nhiêm nên gọi là Đại Trang Nhiêm Tam Ma Địa. Vì sao gọi là Phổ Chiếu Thế Giang Tam Ma Địa? Vì khi Trụ Tam Ma Địa này sẽ soi sáng các đảng trì và tất cả pháp, làm cho các loại hữu tình đều được khai mở trí hiểu biết nên gọi là Phổ Chiếu Thế Giang Tam Ma Địa. Vì sao gọi là Định Bình Đẳng Tánh Tam Ma Địa? Vì khi Trụ Tam Ma Địa này chẳng thấy sự sai khác giữa định và tán loạn của đảng trì nên gọi là Định Bình Đẳng Tánh Tam Ma Địa. Vì sao gọi là Viễn Ly Trần Cấu Tam Ma Địa? Vì khi Trụ Tam Ma Địa này có thể diệt chịu được bụi trần của tất cả phiền não nên gọi là Viễn Ly Trần Cấu Tam Ma Địa. Vì sao gọi là Hữu Tránh Vô Tránh Bình Đẳng Lý Thú Tam Ma Địa? Vì khi Trụ Tam Ma Địa này không thấy tánh và tướng sai khác giữa hữu tránh và vô tránh trong các pháp và tất cả định nên gọi là Hữu Tránh Vô Tránh Bình Đẳng Lý Thú Tam Ma Địa. Vì sao gọi là Vô Sao Huỵt Vô Tiêu Xí Vô Ái Lạc Tam Ma Địa? Vì khi Trụ Tam Ma Địa này phá được các sao huyệt, xả bỏ dấu hiệu đoạn trừ các sự ái lạc mà không bị chấp trước nên gọi là Vô Sao Huỵệt Vô Tiêu Xí Vô Ái Lạc Tam Ma Địa. Vì sao gọi là Quyết Định An Trụ Trân Như Tam Ma Địa? Vì khi Trụ Tam Ma Địa này thường không xả bỏ trân như thật tướng của các đảng trì và tất cả pháp nên gọi là Quyết Định An Trụ Trân Như Tam Ma Địa. Vì sao gọi là Ly Thân Nữ Ý Quế Ác Tam Ma Địa? Vì khi Trụ Tam Ma Địa này đối với thân, ngữ, ý hoàn toàn vô sở đắc, phá hoại tất cả thân, ngữ, ý xấu, tự tại không chiếm ngại trong các đảng trì nên gọi là Ly Thân Nữ Ý Quế Ác Tam Ma Địa. Vì sao gọi là Như Hư Không Tam Ma Địa? Vì khi Trụ Tam Ma Địa này quán tất cả pháp hoàn toàn vô sở hữu, không chiếm ngại Như Hư Không Mênh Mông nên gọi là Như Hư Không Tam Ma Địa. Vì sao gọi là Vô Nhĩn Vô Trước Tam Ma Địa? Vì khi Trụ Tam Ma Địa này quán tất cả pháp đều đồng một tướng, tướng ấy là Vô Tướng, Vô Nhĩn, Vô Trước nên gọi là Vô Nhĩn Vô Trước Tam Ma Địa. Thiện Hiện Đó là tướng đại thừa khi Đại Bồ Tát hành bát nhã Ba La Mật Đa thâm sâu. Lại nữa, Thiện Hiện Tướng đại thừa của các Đại Bồ Tát ấy là 4 Niệm Trụ. 4 Niệm Trụ là gì? Một là Thân Niệm Trụ, hai là Thọ Niệm Trụ, ba là Tâm Niệm Trụ, bốn là Pháp Niệm Trụ. Thế nào là Thân Niệm Trụ? Nghĩa là khi Đại Bồ Tát hành bát nhã Ba La Mật Đa thâm sâu, dùng vô sở đắc làm phương tiện, tùy đối với nội thân, hoặc ngoại thân, hoặc nội ngoại thân, luôn trụ pháp quán thân trên thân, nhưng không câu hữu với tầm và tướng, nhiệt tâm tinh tấn đầy đủ chánh tri, diệt trừ được tham ưu thế gian. Thế nào là Thọ Niệm Trụ? Nghĩa là khi Đại Bồ Tát hành bát nhã Ba La Mật Đa thâm sâu, dùng vô sở đắc làm phương tiện, đối với nội thọ, hoặc ngoại thọ, hoặc nội ngoại thọ, tuy trụ quán thọ trên thọ, nhưng không câu hữu với tầm và tướng, nhiệt tâm tinh tấn biết rõ sự tỉnh giác, trừ được tham ưu thế gian. Thế nào là Tâm Niệm Trụ? Nghĩa là khi Đại Bồ Tát hành bát nhã Ba La Mật Đa thâm sâu, dùng vô sở đắc làm phương tiện, đối với nội tâm, hoặc ngoại tâm, hoặc nội ngoại tâm, tuy trụ quán tâm trên tâm, nhưng không câu hữu với tầm và tướng, nhiệt tâm tinh tấn, chánh niệm tỉnh giác, trừ được tham ưu thế gian. Thế nào là Pháp Niệm Trụ? Nghĩa là khi Đại Bồ Tát hành bát nhã Ba La Mật Đa thâm sâu, dùng vô sở đắc làm phương tiện, đối với nội Pháp, hoặc ngoại Pháp, hoặc nội ngoại Pháp, tuy trụ quán Pháp trên Pháp, nhưng không câu hữu với tầm và tướng, nhiệt tâm tinh tấn, chánh niệm tỉnh giác, việt trừ được tham ưu thế gian. Lại nữa, Thiện Hiện Khi hành bát nhã Ba La Mật Đa thâm sâu, các Đại Bồ Tát dùng vô sở đắc làm phương tiện, đối với nội thân luôn quán thân trên thân, nhiệt tâm tinh tấn, chánh niệm tỉnh giác, việt trừ được tham ưu thế gian. Nghĩa là khi hành bát nhã Ba La Mật Đa thâm sâu, Đại Bồ Tát dùng vô sở đắc làm phương tiện, quán kỹ tự thân khi đi như thật biết đang đi, khi đứng như thật biết đang đứng, khi ngồi như thật biết đang ngồi, khi nằm như thật biết đang nằm. Mỗi ai nghi sai khác nơi tự thân đều như thật biết như vậy, nhiệt tâm tinh tấn, chánh niệm tỉnh giác, việt trừ được tham ưu thế gian. Đó là Đại Bồ Tát khi hành bát nhã Ba La Mật Đa thâm sâu, dùng vô sở đắc làm phương tiện, trụ pháp quán thân trong nội thân, nhiệt tâm tinh tấn, chánh niệm tỉnh giác, việt trừ được tham ưu thế gian. Lại nữa, Thiện Hiện Khi hành bát nhã Ba La Mật Đa thâm sâu, các Đại Bồ Tát dùng vô sở đắc làm phương tiện, trụ pháp quán thân trong nội thân, nhiệt tâm tinh tấn, chánh niệm tỉnh giác, việt trừ được tham ưu thế gian. Nghĩa là khi hành bát nhã Ba La Mật Đa thâm sâu, Đại Bồ Tát dùng vô sở đắc làm phương tiện, quán kỹ tự thân viết rõ sự qua lại, viết rõ sự nhìn tới nhìn lui, viết rõ sự cuối xuống ngước lên, viết rõ sự có dũi, mặt tăng dà lê, đắp y ông bát, khi ăn khi uống, khi nằm nghỉ, lúc kinh hành, khi ngồi dậy, lúc nhìn rước, thức ngủ nói năng im lặng, nhập xuất các định đều chánh niệm viết rõ. Đó là Đại Bồ Tát khi hành bát nhã Ba La Mật Đa thâm sâu, dùng vô sở đắc làm phương tiện, trụ pháp quán thân trong nội thân, nhiệt tâm tinh tấn, chánh niệm tỉnh giác, việt được tham ưu thế gian. Lại nữa, thiện hiện, khi hành bát nhã Ba La Mật Đa thâm sâu, các Đại Bồ Tát dùng vô sở đắc làm phương tiện, trụ pháp quán thân trên thân, nhiệt tâm tinh tấn, chánh niệm tỉnh giác, việt được tham ưu thế gian. Như là khi hành bát nhã Ba La Mật Đa thâm sâu, Đại Bồ Tát dùng vô sở đắc làm phương tiện, quán kỹ tự thân khi thở vào như thật biết thở vào, khi thở ra như thật biết thở ra, khi hơi thở dài như thật biết hơi thở dài, khi hơi thở ngắn như thật biết hơi thở ngắn. Như thở quay bánh xe hoặc đệ tử vị ấy, khi lực bánh xe quay lâu như thật biết lực bánh xe lâu, khi lực bánh xe mau như thật biết lực xe mau. Đại Bồ Tát này cũng như vậy, như thật biết rõ sự sai khác của hơi thở ngắn và hơi thở dài. Đó là Đại Bồ Tát khi hành bát nhã Ba La Mật Đa thâm sâu, dùng vô sở đắc làm phương tiện, trụ pháp quán thân trong nội thân, nhiệt tâm tinh tấn, chánh niệm tỉnh giác, việt được tham ưu thế gian. Lại nữa, thiện hiện. Khi hành bát nhã Ba La Mật Đa thâm sâu, các Đại Bồ Tát dùng vô sở đắc làm phương tiện, nhiệt tâm tinh tấn, chánh niệm tỉnh giác, nên trừ được tham ưu thế gian. Nghĩa là khi hành bát nhã Ba La Mật Đa thâm sâu, Đại Bồ Tát dùng vô sở đắc làm phương tiện, như thật biết rõ các giới sai khác của tự thân, đối với địa giới như thật biết rõ đây là địa giới, đối với các thủy giới như thật biết rõ đây là thủy giới, đối với các họa giới như thật biết rõ đây là họa giới, đối với phong giới như thật biết rõ đây là phong giới. Như đồ tẩy giỏi hoặc đệ tử vị ấy, sau khi giết trâu rồi dùng dao thật bén mổ sẽ thân phân làm bốn phần, hoặc ngồi hoặc đứng như thật biết rõ. Đại Bồ Tát này cũng vậy, khi hành bát nhã Ba La Mật Đa thâm sâu, dùng vô sở đắc làm phương tiện, quan sát sự sai khác của bốn giới, địa, thủy, họa, phong nơi tự thân. Đó là Đại Bồ Tát khi hành bát nhã Ba La Mật Đa thâm sâu, dùng vô sở đắc làm phương tiện, trụ pháp quán thân trong nội thân, nhiệt tâm tinh tấn, chánh niệm tỉnh giác, diệt được tham ưu thế gian. Lại nữa, thiện hiện. Cóc, lông, mỏng, răng, da dày, da mỏng, máu thịt, gân mạch, phương tuổi, tim, gan, phổi, thần, lá lách, mật, bao tử, ruột già, ruột non, phân, nước tiểu, nước mũi, nước bọt, nước giải, nước mắt, mồ hôi, đàm mũ, mỡ chai, mỡ nước, não, ghen, đáy tai. Bên trong tràn đầy những thứ bất tình này. Nhiều trong kho của các trưởng giả hoặc nông phu, chứa đầy các loại ngũ cốc, gồm, nếp, mẹ, luống, đậu, bắp v.v. Người sáng mắt mở kho ra xem biết đúng như thật trong ấy chỉ có nếp, mẹ, lú v.v. Đại Bồ Tát này cũng như vậy, quán kỹ tự thân, từ chân đến đỉnh đầu đầy dậy bất tình chẳng đáng tham đắm. Đó là Đại Bồ Tát khi hành bát nhã ba la mật đa thăm sâu, dùng vô sở đắc làm phương tiện, trụ vào pháp quán thân trong nội thân, nhiệt tâm tinh tấn, chánh niệm tỉnh giác, diệt được tham ưu thế gian. Lại nữa, thiện hiện. Khi hành bát nhã ba la mật đa thăm sâu, các Đại Bồ Tát dùng vô sở đắc làm phương tiện, trụ vào pháp quán thân trong nội thân, nhiệt tâm tinh tấn, chánh niệm tỉnh giác, nền trừ được tham ưu thế gian. Nghĩa là khi hành bát nhã ba la mật đa thăm sâu, các Đại Bồ Tát dùng vô sở đắc làm phương tiện, khi đến gò mã quan sát tử thi bị vứt bỏ, hoặc thay chết đã một ngày, hai ngày cho đến bảy ngày. Tử thi chướng sinh lên, sắc ngã xanh bầm, già thối rửa, máu mũ lan tràn. Thấy việc này rồi, tự nghĩ thân ta tánh chất cũng như vậy, đủ pháp như thế, nếu chưa chứng niết bàn rốt cuộc cũng như vậy, nên xanh nhạm chán xa liền. Đó là Đại Bồ Tát khi hành bát nhã ba la mật đa thăm sâu, dùng vô sở đắc làm phương tiện, trụ pháp quán thân trong nội thân, nhiệt tâm tinh tấn, chánh niệm tỉnh giác, nhiệt được tham ưu thế gian. Lại nữa, thiện hiện, khi hành bát nhã ba la mật đa thăm sâu, các Đại Bồ Tát dùng vô sở đắc làm phương tiện, trụ vào pháp quán thân trong nội thân, nhiệt tâm tinh tấn, chánh niệm tỉnh giác, nền trừ được tham ưu thế gian. Nghĩa là khi hành bát nhã ba la mật đa thăm sâu, Đại Bồ Tát dùng vô sở đắc làm phương tiện, đi đến chỗ gò mãi nhìn tử thi bị vứt bỏ, đã một ngày hoặc hai ngày, cho đến bảy ngày, tử thi bị các loài cầm thú như chim, diệu hâu, quả, kênh kênh, cọc bèo, chó sói, trồng vệ, vệ, hoặc mổ, hoặc quốc lấy, cắn xé ăn nuốt xương thịt vuông vải. Thấy việc này rồi, tự nghĩ bản tánh thân ta đủ pháp giống như thế. Nếu chưa chứng niết bàn cuối cùng cũng như vậy, nên xanh nhàm chán và xa liền. Đó là Đại Bồ Tát khi hành bát nhã ba la mật đa thăm sâu, dùng vô sở đắc làm phương tiện, trụ vào pháp quán thân trong nội thân, nhiệt tâm tinh tấn, chánh niệm tỉnh giác, nền trừ được tham ưu thế gian. Lại nữa, thiện hiện, khi hành bát nhã ba la mật đa thăm sâu, các Đại Bồ Tát dùng vô sở đắc làm phương tiện, trụ vào pháp quán thân trong nội thân, nhiệt tâm tinh tấn, chánh niệm tỉnh giác, nền trừ được tham ưu thế gian. Nghĩa là khi hành bát nhã ba la mật đa thăm sâu, Đại Bồ Tát dùng vô sở đắc làm phương tiện, đi đến chỗ gò mã quan sát tử thi bị vứt bỏ, bị chim thú ăn rồi bất tỉnh thối rửa, máu mũ chảy lan tràn, phát sanh vô lượng thứ trùng, đủ loại dòi, giờ bận hôi thúi hơn cho chết. Thấy việc này rồi, tự nghĩ thân ta bản tính giống vậy, đủ pháp như thế, nếu chưa được niết bàn rốt cuộc cũng như vậy, nên phát sanh sự nhàm chán xa liền. Đó là khi hành bát nhã ba la mật đa thăm sâu, Đại Bồ Tát dùng vô sở đắc làm phương tiện, trụ vào pháp quán thân trong nội thân, nhiệt tâm tinh tấn, chánh niệm tỉnh giác, trừ được tham ưu thế gian. Lại nữa, thiện hiện. Khi hành bát nhã ba la mật đa thăm sâu, các Đại Bồ Tát dùng vô sở đắc làm phương tiện, trụ vào pháp quán thân trong nội thân, nhiệt tâm tinh tấn, chánh niệm tỉnh giác, trừ được tham ưu thế gian. Nghĩa là khi hành bát nhã ba la mật đa thăm sâu, Đại Bồ Tát dùng vô sở đắc làm phương tiện, đi đến chỗ gò mã quan sát tử thi bị vứt bỏ, trùng dòi ăn rồi, đã thịt lồi xương, lóng đốt dính nhau, gân buộc máu tràn, chỉ còn thịt bầy nhầy. Thấy việc này rồi, tự nghĩ thân ta bản tánh giống vậy, đủ pháp như thế. Nếu chưa chứng niết bàn cuối cùng cũng như vậy, nên sanh nhàm chán và xa liền. Đó là khi hành bát nhã ba la mật đa thăm sâu, Đại Bồ Tát dùng vô sở đắc làm phương tiện, trụ vào pháp quán thân trong nội thân, nhiệt tâm tinh tấn, chánh niệm tỉnh giác, trừ được tham ưu thế gian. Lại nữa, thiện hiện. Khi hành bát nhã ba la mật đa thăm sâu, các Đại Bồ Tát dùng vô sở đắc làm phương tiện, trụ vào pháp quán thân trong nội thân, nhiệt tâm tinh tấn, chánh niệm tỉnh giác, trừ được tham ưu thế gian. Nghĩa là khi hành bát nhã ba la mật đa thăm sâu, Đại Bồ Tát dùng vô sở đắc làm phương tiện, đi đến chỗ gò mã quan sát tử thi bị vứt bỏ đã thành phương vụn, máu thịt cạn khô, chỉ còn những sợi gân dính lại. Thấy việc này rồi, tự nghĩ thân ta bản tánh giống vậy, đủ pháp như thế, nếu chưa đạt niết bàn cuối cùng cũng như vậy, nên phát sanh sự nhàm chán xa liền. Đó là khi hành bát nhã ba la mật đa thăm sâu, Đại Bồ Tát dùng vô sở đắc làm phương tiện, trụ vào pháp quán thân trong nội thân, nhiệt tâm tinh tấn, chánh niệm tỉnh giác, trừ được tham ưu thế gian. Lại nữa, thiện hiện. Khi hành bát nhã ba la mật đa thăm sâu, các Đại Bồ Tát dùng vô sở đắc làm phương tiện, trụ vào pháp quán thân trong nội thân, nhiệt tâm tinh tấn, chánh niệm tỉnh giác, trừ được tham ưu thế gian. Nghĩa là khi hành bát nhã ba la mật đa thăm sâu, Đại Bồ Tát dùng vô sở đắc làm phương tiện, đi đến chỗ gò mã quan sát tử thi bị vứt bỏ, chỉ còn lại phương trắng, trắng tinh như ngọc tuyết xa, các gân ngục nát, lóng đốt trời đạt. Thấy việc này rồi, tự nghĩ thân ta bản tính giống vậy, đủ pháp như thế, nếu chưa được nhiết bàn rốt cuộc cũng như vậy, nên sanh nhằm tráng xa liệt. Đó là khi hành bát nhã ba la mật đa thăm sâu, Đại Bồ Tát dùng vô sở đắc làm phương tiện, trụ vào pháp quán thân trong nội thân, nhiệt tâm tinh tấn, chánh niệm tỉnh giác, trừ được tham ưu thế gian. Lại nữa, thiện hiện. Khi hành bát nhã ba la mật đa thăm sâu, các Đại Bồ Tát dùng vô sở đắc làm phương tiện, trụ vào pháp quán thân trong nội thân, nhiệt tâm tinh tấn, chánh niệm tỉnh giác, trừ được tham ưu thế gian. Nghĩa là khi hành bát nhã ba la mật đa thăm sâu, Đại Bồ Tát dùng vô sở đắc làm phương tiện, đi đến chỗ gò mã quan sát tử thi bị vứt bỏ, đã thành sát trắng, đốt xương phân tán, vuông vải khắp nơi. Thấy việc này rồi, tự nghĩ thân ta bản tánh giống vậy, đủ pháp như thế, nếu chưa được nghiết bàn rốt cuộc cũng như vậy, nên phát sanh sự nhảm chán xa liệt. Đó là khi hành bát nhã ba la mật đa thăm sâu, Đại Bồ Tát dùng vô sở đắc làm phương tiện, trụ vào pháp quán thân trong nội thân, nhiệt tâm tinh tấn, chánh niệm tỉnh giác, trừ được tham ưu thế gian. Lại nữa, thiện hiện. Khi hành bát nhã ba la mật đa thăm sâu, các Đại Bồ Tát dùng vô sở đắc làm phương tiện, trụ vào pháp quán thân trong nội thân, nhiệt tâm tinh tấn, chánh niệm tỉnh giác, trừ được tham ưu thế gian. Nghĩa là khi hành bát nhã ba la mật đa thăm sâu, Đại Bồ Tát dùng vô sở đắc làm phương tiện, đi đến chỗ gò mã quan sát tử thi bị vứt bỏ, các xương phân tán khắp nơi, xương bàn chân chỗ này, xương ống chân chỗ kia, xương đầu gối chỗ nọ, xương đùi chỗ khác, xương sóng chỗ khác, xương hông chỗ khác, xương ngực chỗ khác, xương vai chỗ khác, xương cánh tay chỗ khác, xương bàn tay chỗ khác, xương cổ chỗ khác, xương hàm chỗ khác, xương má chỗ khác, xương đầu chỗ khác. Thấy việc này rồi, tự nghĩ thân ta bản tánh giống vậy, nếu chưa được nhiết bàn rốt cuộc cũng như vậy, nên sanh sự nhàm chán xa liệt. Đó là khi hành bát nhã ba la mật đa thăm sâu, Đại Bồ Tát dùng vô sở đắc làm phương tiện, trụ vào pháp quán thân trong nội thân, nhiệt tâm tinh tấn, chánh niệm tỉnh giác, trừ được tham ưu thế gian. Lại nữa, thiện hiện. Khi hành bát nhã ba la mật đa thăm sâu, các Đại Bồ Tát dùng vô sở đắc làm phương tiện, trụ vào pháp quán thân trong nội thân, nhiệt tâm tinh tấn, chánh niệm tỉnh giác, trừ được tham ưu thế gian. Nghĩa là khi hành bát nhã ba la mật đa thăm sâu, Đại Bồ Tát dùng vô sở đắc làm phương tiện, đến chỗ gò mã quan sát tử thi bị vứt bỏ, hai cốt ngỗ ngang, gió thổi nắng đốt, mưa chanh sương thấm, trải qua năm tháng màu sắc trắng như nọc tuyết xa. Thấy việc này rồi, tự nghĩ thân ta bản tánh giống vậy, nếu chưa được nhiết bàn rốt cuộc cũng như vậy, nên sanh sự nhàm chán xa liệt. Đó là khi hành bát nhã ba la mật đa thăm sâu, Đại Bồ Tát dùng vô sở đắc làm phương tiện, trụ vào pháp quán thân trong nội thân, nhiệt tâm tinh tấn, chánh niệm tỉnh giác, trừ được tham ưu thế gian. Lại nữa, thiện hiện, khi hành bát nhã ba la mật đa thăm sâu, các Đại Bồ Tát dùng vô sở đắc làm phương tiện, trụ vào pháp quán thân trong nội thân, nhiệt tâm tinh tấn, chánh niệm tỉnh giác, trừ được tham ưu thế gian. Nghĩa là khi hành bát nhã ba la mật đa thăm sâu, Đại Bồ Tát dùng vô sở đắc làm phương tiện, đến chỗ gò mã quan sát tử thi bị vứt bỏ, trải qua hơn trăm năm, hoặc hơn ngàn năm chỉ còn bột xương và đất, biến dạng thành màu xanh, có màu như lông bồ câu, hoặc có thứ mục nát ra bột như bụi, trộn lẫn vào đất, khó phân biệt được. Thấy việc này rồi, tự nghĩ thân ta bản tánh giống vậy, nếu chưa được nhiết bàn trốt cuộc cũng như vậy, nên sanh sự nhàm chán xa liệt. Đó là khi hành bát nhã ba la mật đa thăm sâu, Đại Bồ Tát dùng vô sở đắc làm phương tiện, trụ vào pháp quán thân trong nội thân, nhiệt tâm tinh tấn, chánh niệm tỉnh giác, trừ được tham ưu thế gian. Khi hành bát nhã ba la mật đa thăm sâu, các Đại Bồ Tát dùng vô sở đắc làm phương tiện, nhiều trụ pháp quán thân trong nội thân sai khác này, nhiệt tâm tinh tấn, chánh niệm tỉnh giác, trừ được tham ưu thế gian. Nương vào ngoại thân để quán thân, nương vào nội ngoại thân để quán thân, nhiệt tâm tinh tấn, chánh niệm tỉnh giác, trừ được tham ưu thế gian, tùy theo pháp thích ứng, Bồ Tát đều như vậy cả. Khi hành bát nhã ba la mật đa thăm sâu, các Đại Bồ Tát dùng vô sở đắc làm phương tiện, trụ vào thọ, tâm, pháp, bên trong, bên ngoài để quán thọ, tâm, pháp, nhiệt tâm tinh tấn, chánh niệm tỉnh giác, trừ được tham ưu thế gian, tùy theo pháp thích ứng, nói rộng như trên. Thiện hiện. Như vậy, khi hành bát nhã ba la mật đa thăm sâu, Đại Bồ Tát dùng vô sở đắc làm phương tiện, trụ vào thân, thọ, tâm, pháp bên trong, bên ngoài để quán thân, thọ, tâm, pháp, tuy quán như vậy nhưng vô sở đắc. Thiện hiện. Đó là tướng đại thừa của Đại Bồ Tát khi hành bát nhã ba la mật đa thăm sâu. Lại nữa, thiện hiện. Tướng đại thừa của các Đại Bồ Tát là bốn chánh đoạn. Những gì là bốn? Thiện hiện nên biết, khi hành bát nhã ba la mật đa thăm sâu, Đại Bồ Tát nào dùng vô sở đắc làm phương tiện, đối với các pháp ác bất thiện chưa sanh làm cho chúng chẳng sanh, nên cố gắng phát sanh và giữ tâm chuyên cần, siêng năng đúng đắn. Đó là thứ nhất. Khi hành bát nhã ba la mật đa thăm sâu, Đại Bồ Tát nào dùng vô sở đắc làm phương tiện, đối với các pháp ác bất thiện đã sanh làm cho chúng chấm dứt thẳng, nên cố gắng phát sanh và giữ tâm chuyên cần đúng đắn. Đó là thứ hai. Khi hành bát nhã ba la mật đa thăm sâu, Đại Bồ Tát nào dùng vô sở đắc làm phương tiện, đối với pháp thiện chưa sanh làm cho chúng phát sanh, nên cố gắng phát sanh và giữ tâm chuyên cần siêng năng đúng đắn. Đó là thứ ba. Khi hành bát nhã ba la mật đa thăm sâu, Đại Bồ Tát nào dùng vô sở đắc làm phương tiện, đối với pháp thiện đã sanh làm cho chúng an trụ và luôn làm tăng trưởng chúng nhiều thêm đến viên mãng, nên cố gắng phát sanh và giữ tâm chuyên cần siêng năng đúng đắn. Đó là thứ tư. Thiện hiện. Đó là tướng đại thừa của Đại Bồ Tát khi hành bát nhã ba la mật đa thăm sâu. Lại nữa, thiện hiện. Tướng đại thừa của các Đại Bồ Tát là bốn thần túc. Những gì là bốn? Thiện hiện nên viết, Đại Bồ Tát nào khi hành bát nhã ba la mật đa thăm sâu, dùng vô sở đắc làm phương tiện, để tu tập dục đắn trì đoạn hành, thành tựu thần túc, nương vào sự xa lịa, sự vô nhiễm, diệt trừ, hồi hướng phả. Đó là thứ nhất. Đại Bồ Tát nào khi hành bát nhã ba la mật đa thăm sâu, dùng vô sở đắc làm phương tiện, tu hành trần đắn trì đoạn hành, thành tựu thần túc, nương vào sự xa lịa, sự vô nhiễm, diệt trừ, hồi hướng phả. Đó là thứ hai. Đại Bồ Tát nào khi hành bát nhã ba la mật đa thăm sâu, dùng vô sở đắc làm phương tiện, tu tập tâm đắn trì đoạn hành, thành tựu thần túc, nương vào sự xa lịa, sự vô nhiễm, diệt trừ, hồi hướng phả. Đó là thứ ba. Đại Bồ Tát nào khi hành bát nhã ba la mật đa thăm sâu, dùng vô sở đắc làm phương tiện, tu tập quán đắn trì đoạn hành, thành tựu thần túc, nương vào sự xa lịa, sự vô nhiễm, diệt trừ, hồi hướng phả. Đó là thứ tư. Thiện hiện. Đó là tướng đại thừa của Đại Bồ Tát khi hành bát nhã ba la mật đa thăm sâu. Lại nữa, thiện hiện. Tướng đại thừa của các Đại Bồ Tát là năm căng. Những gì là năm? Thiện hiện nên biết, Đại Bồ Tát nào khi hành bát nhã ba la mật đa thăm sâu, dùng vô sở đắc làm phương tiện, để tu tính căng, tinh tấn căng, niệm căng, định căng, tuệ căng. Thiện hiện. Đó là tướng đại thừa của Đại Bồ Tát khi hành bát nhã ba la mật đa thăm sâu. Lại nữa, thiện hiện. Tướng đại thừa của các Đại Bồ Tát là năm lực. Những gì là năm? Thiện hiện nên biết, Đại Bồ Tát nào khi hành bát nhã ba la mật đa thăm sâu, dùng vô sở đắc làm phương tiện, để tu tính căng, tinh tấn căng, niệm căng, định căng, tuệ căng. Thiện hiện. Đó là tướng đại thừa của Đại Bồ Tát khi hành bát nhã ba la mật đa thăm sâu. Lại nữa, thiện hiện. Tướng đại thừa của các Đại Bồ Tát là bảy chi đẳng giác. Những gì là bảy? Thiện hiện nên biết, Đại Bồ Tát nào khi hành bát nhã ba la mật đa thăm sâu, dùng vô sở đắc làm phương tiện, để tu niềm giác chi, trạch tập pháp giác chi, tinh tấn giác chi, hi giác chi, khinh an giác chi, định giác chi, xả giác chi, nhưng phải nương vào sự xa lịa, sự vô nhiễm, sự diệt trừ, hồi hướng xả. Thiện hiện. Đó là tướng đại thừa của Đại Bồ Tát khi hành bát nhã ba la mật đa thăm sâu. Lại nữa, thiện hiện. Tướng đại thừa của các Đại Bồ Tát là tám chi thánh đạo. Những gì là tám? Thiện hiện nên biết, Đại Bồ Tát nào khi hành bát nhã ba la mật đa thăm sâu, dùng vô sở đắc làm phương tiện, để tu tránh kiến, tránh tư duy, tránh nữ, tránh nghiệp, tránh mạng, tránh tinh tấn, tránh miệng, tránh định, nương vào sự xa lịa, sự vô nhiễm, diệt trừ, hồi hướng xả. Thiện hiện. Đó là tướng đại thừa của Đại Bồ Tát khi hành bát nhã ba la mật đa thăm sâu. Lại nữa, thiện hiện. Tướng đại thừa của các Đại Bồ Tát là ba pháp môn giải thoát. Những gì là ba? Thiện hiện nên biết, Đại Bồ Tát nào khi hành bát nhã ba la mật đa thăm sâu, dùng vô sở đắc làm phương tiện, quán tất cả pháp tự tướng đều là không, an trụ tâm như vậy, gọi là pháp môn giải thoát không, còn gọi là không tama địa. Đó là môn thứ hai, các Đại Bồ Tát nếu muốn học đại thừa nên học trong đó. Đại Bồ Tát nào khi hành bát nhã ba la mật đa thăm sâu, dùng vô sở đắc làm phương tiện, quán tất cả pháp tự tướng đều là không, nên đều không có tướng, an trụ tâm như vậy, gọi là pháp môn giải thoát vô tướng, cũng gọi là vô tướng tama địa. Đó là môn thứ hai, các Đại Bồ Tát nếu muốn học đại thừa nên học trong đó. Đại Bồ Tát nào khi hành bát nhã ba la mật đa thăm sâu, dùng vô sở đắc làm phương tiện, quán tất cả pháp tự tướng là không, nên không có sở nguyện, an trụ tâm như vậy, gọi là pháp môn giải thoát vô nguyện, cũng gọi là vô nguyện tama địa. Đó là môn thứ ba, các Đại Bồ Tát muốn học đại thừa nên học trong đó. Thiện hiện Đó là tướng đại thừa của Đại Bồ Tát khi hành bát nhã ba la mật đa. Lại nữa, thiện hiện Tướng đại thừa của các Đại Bồ Tát là 11 trí. Những gì là 11? Đó là khổ trí, tập trí, diệt trí, đạo trí, tận trí, vô sanh trí, pháp trí, loại trí, thế tục trí, tha tầm trí, nhiều thuyết trí. Thế nào là khổ trí? Nghĩa là trí dùng vô sở đắc làm phương tiện, biết khổ nên chẳng sanh. Đó là khổ trí. Thế nào là tập trí? Nghĩa là trí dùng vô sở đắc làm phương tiện, biết được sự tập khởi nên vĩnh viễn đoạn trừ. Đó là tập trí. Thế nào là diệt trí? Trí nào dùng vô sở đắc làm phương tiện, biết được sự đoạn diệt nên tát chứng. Đó là diệt trí. Thế nào là đạo trí? Trí nào dùng vô sở đắc làm phương tiện, biết được đạo nên tu tập. Đó là đạo trí. Thế nào là tận trí? Trí nào dùng vô sở đắc làm phương tiện, biết được tham, sân, si hết. Đó là tận trí. Thế nào là vô sanh trí? Trí nào dùng vô sở đắc làm phương tiện, biết được các hữu không còn sanh nữa. Đó là vô sanh trí. Thế nào là pháp trí? Trí nào dùng vô sở đắc làm phương tiện, biết được năm quẩn V, V, mỗi mỗi đều có tự tánh riêng. Đó là pháp trí. Thế nào là loại trí? Trí nào dùng vô sở đắc làm phương tiện, biết được tướng sai khác của năm quẩn V, V, nghĩa là khổ, vô thường, không, vô ngã V, V. Đó là loại trí. Thế nào là thế tục trí? Trí nào dùng vô sở đắc làm phương tiện, biết được các hữu tình tu hành có sai khác và biết được danh tướng giống và khác của các pháp V, V. Đó là thế tục trí. Thế nào là tha tâm trí? Trí nào dùng vô sở đắc làm phương tiện, biết được tâm và tâm sở pháp của hữu tình khác nhưng không vân vân trở ngại. Đó là tha tâm trí. Thế nào là như thuyết trí? Trí nào dùng vô sở đắc làm phương tiện, biết được tướng tất cả pháp giống như lời nói, tức là trí nhất thiết tướng của Như Lai. Đó là như thuyết trí. Thiện hiện Nên biết 11 trí này là tướng đại thừa của Đại Bồ-Tát khi hành bác nhã Ba-la-mật-đa thăm sâu. Lại nữa, thiện hiện Tướng đại thừa của các Đại Bồ-Tát là ba căn vô lậu. Những gì là ba? Một là vị tri đương tri căn, hai là dĩ tri căn, ba là cụ tri căn. Thế nào là vị tri đương tri căn? Nghĩa là các bậc hữu học đối với các thánh đế chưa hiện quán hoàn toàn, chưa đắt thánh quả nhưng đã có tính căn, tinh tấn căn, niệm căn, định căn, tuệ căn. Đó là vị tri đương tri căn. Thế nào là dĩ tri căn? Nghĩa là các bậc hữu học đối với các thánh đế đã đạt được hiện quán, đã đắt thánh quả có đầy đủ tính căn, tinh tấn căn, niệm căn, định căn, tuệ căn. Đó là dĩ tri căn. Thế nào là cụ tri căn? Nghĩa là các bậc vô học hoặc A-La-Hán, hoặc các độc giác, hoặc Đại Bồ-Tát đã trụ thập địa, hoặc chiều như Lai ứng chánh đặng giác đã tính căn, tinh tấn căn, niệm căn, định căn, tuệ căn. Đó là cụ tri căn. Nếu ba căn này dùng vô sở đắc làm phương tiện, thì phải biết đó là tướng đại thừa của Đại Bồ-Tát khi hành bát nhã Ba-La-Mật-đa thăm sâu. Lại nữa, thiện hiện. Tướng đại thừa của các Đại Bồ-Tát là ba Tam-ma-địa. Những gì là ba? Một là Tam-ma-địa có tầm có tướng, hai là Tam-ma-địa không tầm có tướng, ba là Tam-ma-địa không tầm không tướng. Thế nào là Tam-ma-địa có tầm có tướng? Nghĩa là Đại Bồ-Tát đã xa lý pháp dục ác bất thiện, có tầm có tướng, ly xanh hỷ lạc, nhập vào sơ tịnh lự an trụ đầy đủ. Đó là Tam-ma-địa có tầm có tướng. Thế nào là Tam-ma-địa không tầm có tướng? Nghĩa là Đại Bồ-Tát đạt đến định trung gian giữa sơ tịnh lự và đệ nhị tịnh lự. Đó là Tam-ma-địa không tầm có tướng. Thế nào là Tam-ma-địa không tầm không tướng? Nghĩa là Đại Bồ-Tát từ đệ nhị tịnh lự cho đến định phi tưởng phi phi tưởng tướng. Đó là Tam-ma-địa không tầm không tướng. Với ba loại này đều dùng vô sở đắc làm phương tiện, thì biết đó là tướng đại thừa của Đại Bồ-Tát khi hành bác nhã Ba-la-mật-đa thăm sâu. Lại nữa, thiện hiện. Tướng đại thừa của Đại Bồ-Tát là 10 tùy niệm. Những gì là 10? Một là tùy niệm Phật, hai là tùy niệm Pháp, ba là tùy niệm Tăng, bốn là tùy niệm Giới, năm là tùy niệm Sả, sau là tùy niệm Thiên, bảy là tùy niệm Nhàm Chán, tám là tùy niệm Tử, chính là tùy niệm Thân, mười là tùy niệm Hơi Thở. Với 10 Pháp này nếu dùng vô sở đắc làm phương tiện, thì biết đó là tướng đại thừa của Đại Bồ-Tát khi hành bác nhã Ba-la-mật-đa thăm sâu. Lại nữa, thiện hiện. Tướng đại thừa của Đại Bồ-Tát là 4 tình lự, 4 vô lượng, 4 định vô sắc, 8 giải thoát, 8 thắng xứ, 9 định thứ đệ, 10 biến xứ V, V, thiện Pháp thanh tình, dùng vô sở đắc làm phương tiện. Nên biết đó là tướng đại thừa của Đại Bồ-Tát khi hành bác nhã Ba-la-mật-đa thăm sâu. Lại nữa, thiện hiện. Tướng đại thừa của Đại Bồ-Tát là 10 lực Phật. Những gì là 10? Thiện hiện nên biết, nếu dùng vô sở đắc làm phương tiện, như thật biết rõ các pháp nhân quả của tướng phiếu phi sướng, đó là lực thứ nhất. Nếu dùng vô sở đắc làm phương tiện, như thật biết rõ tướng các loại hữu tình trong quá khứ, hiện tại, vị lai do tập nghiệp khác nhau mà chịu quả khác nhau, đó là lực thứ hai. Nếu dùng vô sở đắc làm phương tiện, như thật biết rõ tướng mọi loại cảnh giới khác nhau của thế gian, đó là lực thứ ba. Nếu dùng vô sở đắc làm phương tiện, như thật biết rõ nhiều loại thắng giải chẳng phải một loại thắng giải của tất cả hữu tình, đó là lực thứ tư. Nếu dùng vô sở đắc làm phương tiện, như thật biết rõ các căng hơn kém của các loại hữu tình, đó là lực thứ năm. Nếu dùng vô sở đắc làm phương tiện, như thật biết rõ hành tướng biến hành, đó là lực thứ sáu. Nếu dùng vô sở đắc làm phương tiện, như thật biết rõ các pháp như căng, lực, giáp chi, giải thoát, tình lự, đẳng trì, đẳng chí, nhiễm, tình, sai khác của các loại hữu tình, đó là lực thứ bảy. Nếu dùng vô sở đắc làm phương tiện, như thật biết rõ các loại hữu tình có vô lượng đời trước sai khác, đó là lực thứ tám. Nếu dùng vô sở đắc làm phương tiện, do thiên nhãn thanh tịnh như thật biết rõ các hữu tình có vô lượng loại sanh tử sai khác, đó là lực thứ chính. Nếu dùng vô sở đắc làm phương tiện, như thật biết rõ đã chấm dứt các lậu đạt được tâm vô lậu giải thoát, chính được tuệ giải thoát vô lậu, ngay trong hiện tại tử sát chính đầy đủ, có thể chân chánh biết rõ ta sanh đã tận, phạm hành đã thành, những việc cần làm đã xong, không còn trở lại đời sống này nữa, đó là lực thứ mươi. Phải biết, đây là tướng đại thừa của Đại Bồ-Tát khi hành bát nhã Balamudda thăm sâu. Lại nữa, thiện hiện, tướng đại thừa của các Đại Bồ-Tát là bốn điều không sợ. Những gì là bốn? Thiện hiện nên biết, Đại Bồ-Tát nào dùng vô sở đắc làm phương tiện, tự xưng ta là người chánh đẳng giác. Nếu có Sà-môn, hoặc Bà-la-môn, hoặc Thiên-ma, hoặc những hạn khác trong thế gian dựa vào Pháp để vấn nạn, làm cho Bồ-Tát phải suy nghĩ bởi lời nói rằng, Pháp này chẳng phải chánh đẳng giác. Đối với sự vấn nạn đó ta xác nhận đúng đắn nó là vô lý. Đối với sự vấn nạn đó, vì thấy nó phi lý nên được an ổn, trụ không sợ hãi, tự xưng ta ở ngôi vị Đại Tiên Tôn Chính, ở giữa đại chúng trống lên tiếng Sư Tử Chúa, chuyển xe dịu phạm luôn. Xe ấy thanh tịnh, chánh chân vô thường, tất cả Sà-môn, Bà-la-môn về, về, không ai có thể chuyển được đúng Pháp, đó là điều không sợ thứ nhất. Đại Bồ-Tát nào dùng vô sở đắc mà làm phương tiện, tự xưng ta đã chấm dứt các lậu hoặc. Nếu có Sà-môn, hoặc Bà-la-môn, hoặc Thiên Ma Phạm, hoặc kẻ khác trong thế gian dựa vào Pháp mà lập nạn và làm cho Bồ-Tát suy nghĩ nơi lời nói, lậu hoặc này chưa được chấm dứt. Nhờ chánh kiến ta thấy sự vấn nạn ấy vô lý. Vì thấy sự vấn nạn ấy vô lý nên được an ổn, trù không sợ hãi, tự xưng ta ở ngôi vị Đại Tiên Tôn Chính, ở giữa đại chúng trống lên tiếng Sư Tử Chúa, chuyển xe dịu phạm, xe ấy thanh tịnh, chánh chân vô thường, tất cả Sà-môn, Bà-la-môn về, về, đều không ai có thể chuyển được đúng Pháp, đó là điều không sợ thứ hai. Đại Bồ-Tát nào dùng vô sở đắc mà làm phương tiện, vì các đệ tử thuyết Pháp chứng đạo. Nếu có Sà-môn, hoặc Bà-la-môn, hoặc Thiên Ma Phạm, hoặc kẻ khác trong thế gian y Pháp vấn nạn, làm cho Bồ-Tát suy nghĩ bởi lời nói thế này, tu tập Pháp này không thể ngăn đạo. Nhờ chánh kiến ta thấy sự vấn nạn ấy vô lý. Vì thấy sự vấn nạn ấy vô lý nên được trụ an ổn, trụ không sợ hãi, tự xưng ta ở ngôi vị Đại Tiên Tôn Chính, ở giữa đại chúng trống lên Tiến Sư Tử Chúa, quay xe dịu phạm, xe ấy thanh tịnh, chánh chân vô thường, tất cả Sà-môn, Bà-la-môn về, về, không ai có thể chuyển đúng như Pháp được, đó là điều không sợ thứ ba. Đại Bồ-Tát nào dùng vô sở đắc mà làm phương tiện, vì các đệ tử nói đạo chấm dứt khổ. Nếu có Sà-môn, hoặc Bà-la-môn, hoặc Thiên Ma Phạm, hoặc kẻ khác trong thế gian y Pháp lập tra sự vấn nạn, làm cho Bồ-Tát suy nghĩ bởi lời nói thế này, tu đạo này không thể chấm dứt khổ được. Nhờ chánh kiến ta thấy sự vấn nạn ấy vô lý. Vì thấy sự vấn nạn ấy vô lý nên được trụ an ổn, trụ không sợ hãi, tự xưng ta ở ngôi vị Đại Tiên Tôn Chính, ở giữa đại chúng trống Tiến Sư Tử Chúa, chuyển xe dịu phạm, xe ấy thanh tịnh chánh chân vô thượng, tất cả Sà-môn, Bà-la-môn về, về, không ai có thể chuyển như Pháp được, đó là điều không sợ thứ tư. Nên viết đó là tướng đại thừa của Đại Bồ-Tát khi hành bát nhã Ba-la-mật-đa thăm sâu.