Details
Nothing to say, yet
Nothing to say, yet
Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa Tập 20 Quyển 490 3. Phẩm Thiện Hiện 09 Lại nữa, Thiện Hiện Tướng Đại Thừa của các Đại Bồ Tát là bốn sự hiểu biết thông suốt. Những gì là bốn? Một là nghĩa hiểu biết thông suốt, hai là pháp hiểu biết thông suốt, ba là từ hiểu biết thông suốt, bốn là biện hiểu biết thông suốt. Thiện Hiện Bốn sự hiểu biết thông suốt này là dùng vô sở đắc làm phương tiện. Nên biết đó là Tướng Đại Thừa của Đại Bồ Tát khi hành Bát Nhã Ba La Mật Đa thăm sâu. Lại nữa, Thiện Hiện Tướng Đại Thừa của các Đại Bồ Tát là mười tám pháp Phật bất cộng. Những gì là mười tám? Nghĩa là các vị như lai ứng chánh đẳng giác bắt đầu từ đêm chính được quả vị vô thường chánh đẳng bồ đệ, cho đến đêm nhập vô dư y nhiết bàn, ở trong khoảng thời gian này thường không làm lỗi, không có lời nói hung bạo, không mất chánh niệm, không các thứ tưởng, tầm luôn trong định, luôn chọn pháp để xả bỏ, ý chí không thối lui, tinh tấn không thối lui, niệm không lui, định không lui, tuệ không lui, giải thoát trí kiến không lui. Trong tất cả nhịp của thân, trí là dẫn đầu, và tùy theo trí mà chuyển. Tất cả nhịp của miệng, trí là dẫn đầu, và tùy theo trí mà chuyển y. Tất cả nhịp của ý, trí là dẫn đầu, và tùy theo trí mà chuyển y. Trong quá khứ đã khởi lên trí kiến không chấp trước, không nhan ngại. Ở hiện tại đang khởi lên trí kiến không chấp trước, không nhan ngại. Ở vị lai sẽ khởi lên trí kiến không chấp trước, không nhan ngại. Mười tám Pháp Phật bất cộng như thế đều hoàn toàn dùng vô sở đắc làm phương tiện. Nên viết đó là tướng đại thừa của Đại Bồ-Tát khi hành bát nhã Ba-la-mật-đa thâm sâu. Lại nữa, thiện hiện. Tướng đại thừa của các Đại Bồ-Tát ấy gồm các môn văn tử Đa-la-ni. Những môn văn tử Đa-la-ni nào nghĩa là bằng tánh bình đẳng của văn tử, tánh bình đẳng của ngôn ngữ mà đi vào môn các chữ. Thế nào là môn tánh bình đẳng văn tử và tánh bình đẳng ngôn ngữ? Thiện hiện nên biết, khi hành bát nhã Ba-la-mật-đa thâm sâu, Đại Bồ-Tát dùng vô sở đắc làm phương tiện, nhập môn chữ suy, ngộ tất cả Pháp vốn không sanh. Nhập môn chữ lạc, ngộ tất cả Pháp xa lì trần cấu. Nhập môn chữ bả, ngộ được giáo lý thắng nghĩa của tất cả Pháp. Nhập môn chữ giả, ngộ tất cả Pháp xa lì sanh tử, dù tử hoặc sanh đều dùng vô sở đắc làm phương tiện. Nhập môn chữ na, ngộ tất cả Pháp xa lì danh tướng, hoặc danh hoặc tướng đều dùng vô sở đắc làm phương tiện. Nhập môn chữ kha, ngộ tất cả Pháp suốt thế gian, vì nhân duyên ái nhiễm nên chẳng hiện tiện. Nhập môn chữ đà, ngộ tất cả Pháp điều phục, vắng lặng, chân như, bình đẳng không phân biệt. Nhập môn chữ ba, ngộ tất cả Pháp lì sự trói buộc và cởi mở. Nhập môn chữ đồ, ngộ tất cả Pháp xa lì nhiệt não, kiêu căng, quế trượt, đạt được sự thanh tịnh. Nhập môn chữ sa, ngộ tất cả Pháp không quái ngại. Nhập môn chữ phược, ngộ tất cả Pháp chấm dứt đường ngôn ngữ. Nhập môn chữ ả, ngộ tất cả Pháp chân như bất động. Nhập môn chữ giả, ngộ tất cả Pháp như thật chẳng sanh. Nhập môn chữ sát tra, ngộ tướng chế phục và tướng nhầm trì của tất cả Pháp bất khả đắc. Nhập môn chữ ca, ngộ tác giả tất cả Pháp bất khả đắc. Nhập môn chữ ta, ngộ thời và tánh bình đẳng của tất cả Pháp bất khả đắc. Nhập môn chữ ma, ngộ tất cả Pháp tánh ngã và ngã sở bất khả đắc. Nhập môn chữ già, ngộ tánh hành động chấp thủ của tất cả Pháp bất khả đắc. Nhập môn chữ tha, ngộ tánh chất tất cả Pháp trổ y cứu bất khả đắc. Nhập môn chữ xa, ngộ tất cả Pháp năng sở sanh khởi bất khả đắc. Nhập môn chữ thấp phược, ngộ tất cả Pháp tánh an ổn bất khả đắc. Nhập môn chữ đạt, ngộ tánh có thể giữ ghiền cõi giới của tất cả Pháp bất khả đắc. Nhập môn chữ xả, ngộ tánh samatha của tất cả Pháp bất khả đắc. Nhập môn chữ hư, ngộ tánh bình đẳng như hư không bất khả đắc. Nhập môn chữ sàng, ngộ tánh cùng tận của tất cả Pháp bất khả đắc. Nhập môn chữ tác ả, ngộ tất cả Pháp tánh nhậm trì bất khả đắc. Nhập môn chữ nhả, ngộ tất cả Pháp tánh năng sở tri bất khả đắc. Nhập môn chữ thích tha, ngộ tánh chấp trước nghĩa của tất cả Pháp bất khả đắc. Nhập môn chữ ha, ngộ tánh thường làm nhân của tất cả Pháp bất khả đắc. Nhập môn chữ bạc, ngộ tánh phá hoại của tất cả Pháp bất khả đắc. Nhập môn chữ hước, ngộ tất cả Pháp tánh che đậy dục lạc bất khả đắc. Nhập môn chữ tác ma, ngộ tánh đáng nhớ nghĩ của tất cả Pháp bất khả đắc. Nhập môn chữ hạp phạ, ngộ tánh kêu gọi của tất cả Pháp bất khả đắc. Nhập môn chữ sa, ngộ tất cả Pháp lia sự giỏng mạnh. Nhập môn chữ kiên, ngộ tánh bình đẳng sâu dày của tất cả Pháp bất khả đắc. Nhập môn chữ sỉ, ngộ tánh tịch tụ của tất cả Pháp bất khả đắc. Nhập môn chữ noa, ngộ tất cả Pháp lia sự ồn náo. Nhập môn chữ phả, ngộ tất cả Pháp không có quả báo. Nhập môn chữ tác tra, ngộ tất cả Pháp lia tánh chất chứa. Nhập môn chữ dật ta, ngộ tánh tướng suy lão của tất cả Pháp bất khả đắc. Nhập môn chữ trước, ngộ tất cả Pháp không giấu chân. Nhập môn chữ tra, ngộ tánh đuổi bước nhau của tất cả Pháp bất khả đắc. Nhập môn chữ trạch, ngộ chỗ cứu cánh của tất cả Pháp bất khả đắc. Thiền hiện nên viết, môn chữ trạch này có thể ngộ nhập vào tận cùng của Pháp không? Ngoại trừ những chữ này nếu biểu thị các Pháp không thì bất khả đắc. Vì sao? Vì nghĩa các chữ này không thể tuyên thuyết, không thể nêu rõ, không thể viết, không thể chấp thủ, không thể quan sát, vì lia các tướng. Thiền hiện nên biết, thi như hư không là chỗ quay về của tất cả vật. Những môn chữ này cũng lại như thế, nghĩa không của các Pháp đều nhập vào môn này mà được hiển rõ. Thiền hiện nên biết, nhập vào chữ suy này VV, gọi là nhập vào môn chữ. Đại Bồ Tát nào đối với môn chữ này đạt được trí thiện xảo? Đại Bồ Tát ấy đối với các âm thanh, ngôn ngữ được trình bày, được biểu thị đều không quái ngại, đối với tánh không bình đẳng của tất cả Pháp đều có thể nắm giữ được hết, đối với các tiếng nói đều được thiện xảo. Đại Bồ Tát nào có thể nghe và nhập vào môn các chữ này, xác định tướng trạng của nó, xác định câu cú, nghe rồi thọ kỳ độc tụng thông thạo, vì người giảng nói, không có sự chấp trước, chẳng mong danh dự lợi dưỡng cung kính. Do nhân duyên này được ba mươi món công đức thù thắng lợi ích. Những gì là ba mươi? Nghĩa là được nghĩ nhớ giọng mảnh, được tàm quý hơn, được suy kiên cố, được Pháp chỉ thú, được tăng thường giác, được thù thắng tuệ, được sự biện tại vô ngại, được môn tổng trì, được không nghi hoạch, được gặp lời thuận không ưa lời trái, không ghét, được an trụ bình đẳng, không phân biệt cao thấp, được dùng lời xéo léo đối với hữu tình, được quẩn thiện xảo, được giới thiện xảo, được sứ thiện xảo, được chân lý thiện xảo, được duyên khởi thiện xảo, được nhân thiện xảo, được duyên thiện xảo, được... Pháp thiện xảo, được trí căng thắng liệt thiện xảo, được tha tâm trí thiện xảo, được thần cảnh trí thiện xảo, được thiên nhị trí thiện xảo, được tốt trụ tùy niệm trí thiện xảo, được sanh tử trí thiện xảo, được lậu tần trí thiện xảo, được xứ phi xứ trí thiện xảo, được vãn lai trí thiện xảo, được quai nghi lộ trí thiện xảo. Đó là ba mươi công đức thu thắng lợi ích. Thiện hiện nên biết, khi hành bác nhã Palamatta thăm sâu, Đại Bồ-Tát dùng vô sở đắc làm phương tiện, đạt được môn văn tử Đà-la-Ni này. Phải biết đó là tướng Đại Thừa của Đại Bồ-Tát khi hành bác nhã Palamatta thăm sâu. Lại nữa, thiện hiện. Câu hỏi tiếp theo của ông là thế nào thì biết Đại Bồ-Tát hướng đến Đại Thừa? Thiện hiện nên biết, Đại Bồ-Tát nào siêng năng tu hành sáu Pháp Palamatta, từ địa này đến địa khác, với mức độ như vậy nên biết các Đại Bồ-Tát ấy hướng đến Đại Thừa. Cụ thọ thiện hiện bèn thưa Phật rằng. Thế nào là Đại Bồ-Tát siêng năng tu hành Pháp Palamatta từ địa này đến địa khác? Phật bảo thiện hiện. Đại Bồ-Tát nào biết được tất cả Pháp không từ đâu đến, cũng không đi về đâu. Vì sao? Vì tất cả Pháp không đi, không đến, không xuất phát cũng không tới Đức. Do đó nên các Pháp không biến hoại. Đại Bồ-Tát này không nhớ nghĩ, chẳng suy tư về địa bắt đầu, tuy tu nghiệp trị địa nhưng chẳng thấy có địa ấy. Đó là Đại Bồ-Tát siêng năng tu hành sáu Pháp Palamatta, từ địa này đến địa khác. Cụ thọ thiện hiện lại bạch Phật. Thế nào là Đại Bồ-Tát tu nghiệp trị địa? Phật bảo thiện hiện. Khi trụ ở địa thứ nhất, các Đại Bồ-Tát phải khéo tu trị 10 loại thắng nghiệp. Những gì là 10? Một là dùng vô sở đắc làm phương tiện, tu trị nghiệp tịnh thắng ý là vì tướng lợi ích của nó bất khả đắc. Hai là phải dùng vô sở đắc làm phương tiện, khéo tu trị nghiệp bình đẳng tâm đối với tất cả hữu tình. Vì tất cả hữu tình đều bất khả đắc. Ba là phải dùng vô sở đắc làm phương tiện, khéo tu trị tất cả nghiệp xã, thí. Vì người bố thí, kẻ nhận, vật thí đều bất khả đắc. Bốn là dùng vô sở đắc làm phương tiện, phải khéo tu trị nghiệp thân cận thiện hữu, vì không chấp trước đối với thiện hữu. Năm là dùng vô sở đắc làm phương tiện, khéo tu trị nghiệp siêng năng cầu chánh Pháp. Vì giáo Pháp ấy bất khả đắc. Sáu là dùng vô sở đắc làm phương tiện, khéo tu trị nghiệp thường muốn xuất gia. Vì sự xả bỏ gia cư ấy bất khả đắc. Bảy là dùng vô sở đắc làm phương tiện, khéo tu trị nghiệp mến kính thân Phật, vì nhân của các tướng hảo bất khả đắc. Tám là dùng vô sở đắc làm phương tiện, khéo tu trị nghiệp siễn dương giáo Pháp, vì giáo Pháp được phân biệt bất khả đắc. Chính là dùng vô sở đắc làm phương tiện, khéo tu trị nghiệp phá hoại kiêu căng, ngạo mạn, vì các Pháp hưng thịnh bất khả đắc. Mười là dùng vô sở đắc làm phương tiện, nên khéo tu trị nghiệp thường ưa nghe lời chân thật, vì tất cả ngôn ngữ đều bất khả đắc. Thiện hiện nên biết, khi trụ địa thứ nhất, các Đại Bồ Tát nên khéo tu trị mười thắng nghiệp này, nhờ vậy mà địa thứ nhất mau được viên mãn. Lại nữa, thiện hiện. Khi trụ địa thứ hai, các Đại Bồ Tát nên tu tập và tư duy tám Pháp khiến cho chúng mau viên mãn. Những gì là tám? Một là thanh tịnh giới. Hai là biết ơn trả ơn. Ba là trụ vào năng lực an nhẫn. Bốn là thọ hoang hỷ tối thắng. Năm là chẳng bỏ hữu tình. Sáu là thường khởi đại bi. Bảy là đem tâm chính tinh học hỏi, vân lời, cúng dường sư trưởng như phụng thờ chiêu Phật. Tám là xiên năng tu tập, cầu ba là mật đa. Thiện hiện nên biết, khi trụ địa thứ hai, các Đại Bồ Tát nên chánh tư duy, nên xiên tu học làm cho tám Pháp này mau được viên mãn. Lại nữa, thiện hiện. Khi trụ địa thứ ba, các Đại Bồ Tát nên tinh cần an trụ năm Pháp. Những gì là năm? Một là xiên cầu đa văn, thường không nhằm chán Pháp đã được nghe, cũng chẳng chấp trước văn tự. Hai là đem tâm vô nhiễm thường hành Pháp thí, tuy giáo hóa rộng đại nhưng chẳng tự cao. Ba là vì trang nghiêm tịnh độ nên trồng các căng lành, tuy dùng hội hướng nhưng chẳng tự cao. Bốn là vì hóa hữu tình, tuy không nhằm chán mỏi mệt với sanh tử vô biên nhưng chẳng buông lung. Năm là tuy trụ vào tạm quý nhưng không chấp trước. Thiện hiện nên biết, khi trụ địa thứ ba, các Đại Bồ Tát phải thường an trụ năm Pháp này không được tạm rời. Lại nữa, thiện hiện. Khi trụ địa thứ tư, các Đại Bồ Tát nên thọ trì không bỏ mười Pháp. Những gì là mười? Một là chẳng lì bỏ chỗ vắng vẻ. Hai là thường thích ít ham muốn. Ba là thường ưa tri túc. Bốn là thường không lì bỏ công đức đầu đà. Năm là thường không lì bỏ các học sướng. Sáu là phải sanh tâm nhằm chán sa liệt. Bảy là thường ưa phát khởi tâm tương ưng với Niết Bàn. Tám là thường ưa xả bỏ tất cả vật. Chính là bất cứ lúc nào tâm cũng chẳng mê mùi. Mười là thường không luyến trước tất cả sự việc. Thiện hiện nên biết, khi trụ địa thứ tư, các Đại Bồ Tát nên thọ trì không xả bỏ mười Pháp này. Lại nữa, thiện hiện. Khi trụ địa thứ năm, các Đại Bồ Tát nên sa lì mười Pháp. Những gì là mười? Một là nên sa lì gia cư. Hai là nên sa lì bí sô ni. Ba là nên sa lì nhà keo kiệt. Bốn là nên sa lì hội chúng tranh cãi tức giận. Năm là nên sa lì sự khen mình chê người. Sáu là nên sa lì mười nghiệp đạo ác. Bảy là nên sa lì tăng thường mạng. Tám là nên sa lì sự điên đảo. Chính là nên sa lì sự do dự. Mười là nên sa lì tham, sân, si. Thiện hiện nên biết, khi trụ địa thứ năm, các Đại Bồ Tát nên sa lì mười Pháp này. Lại nữa, thiện hiện. Khi trụ địa thứ sáu, các Đại Bồ Tát nên viên mạng sáu Pháp, nên sa lì sáu Pháp. Thế nào là viên mạng sáu Pháp? Nghĩ là nên viên mạng sáu Pháp ba là mật đà như bố thí. Thế nào gọi là sa lì sáu Pháp? Nghĩ là nên sa lì sáu tâm hạ lì. Những gì là sáu? Một là nên sa lì tâm thanh văn. Hai là nên sa lì tâm độc giác. Ba là nên sa lì tâm nhiệt não. Bốn là nên sa lì tâm thấy người hành khất đến mà không vui, bực bội. Năm là nên sa lì tâm đã bố thí vật sở hữu rồi luyến tiếc, ăn năng. Sáu là nên sa lì tâm tìm cách lẫn tránh người đến cầu sinh. Thiện hiện nên biết, khi trụ địa thứ sáu, các Đại Bồ Tát thường nên viên mạng sáu Pháp đã nói trước, và nên sa lì sáu Pháp nói sau. Lại nữa, thiện hiện. Khi trụ địa thứ bảy, các Đại Bồ Tát thường nên sa lì hai mươi Pháp, thường nên viên mạng hai mươi Pháp. Thế nào là thường nên sa lì hai mươi Pháp? Một là thường nên sa lì sự chấp ngã cho đến chấp kiến. Hai là thường nên sa lì chấp đoạn. Ba là thường nên sa lì chấp thường. Bốn là thường nên sa lì chấp tưởng tướng. Năm là thường nên sa lì chấp kiến. Sáu là thường nên sa lì chấp danh sách. Bảy là thường nên sa lì chấp quẩn. Tám là thường nên sa lì chấp sướng. Chính là thường nên sa lì chấp giới. Mười là thường nên sa lì chấp sự thật. Mười một là thường nên sa lì chấp duyên khởi. Mười hai là thường nên sa lì chấp trước ba cõi. Mười ba là thường nên sa lì chấp tất cả Pháp. Mười bốn là thường nên sa lì chấp đối với tất cả Pháp đúng lý và không đúng lý. Mười lăm là thường nên sa lì kiến chấp y Phật. Mười sáu là thường nên sa lì kiến chấp y Pháp. Mười bảy là thường nên sa lì kiến chấp y Tăng. Mười tám là thường nên sa lì kiến chấp y giới. Mười chín là thường nên sa lì kiến chấp y không. Hai mươi là thường nên sa lì nhàm chán sợ sệt tánh không. Vì sao gọi là thường nên viên mãng hai mươi Pháp? Một là thường nên viên mãng thông suốt không? Hai là thường nên viên mãng chứng được vô tướng? Ba là thường nên viên mãng biết vô nguyện? Bốn là thường nên viên mãng thanh tịnh ba luôn? Năm là thường nên viên mãng sự thương xót hữu tình nhưng không chấp trước hữu tình? Sáu là thường nên viên mãng sự thấy tất cả Pháp tánh bình đẳng và ở trong đó không có sự chấp trước? Bảy là thường nên viên mãng sự thấy tánh bình đẳng của tất cả hữu tình và ở trong đó không có sự chấp trước? Tám là thường nên viên mãng sự thông suốt chân lý đưa đến kiếu cánh và ở trong đó không có sự chấp trước? Chính là thường nên viên mãng trí vô sanh Pháp nhẫn? Mười là thường nên viên mãng thuyết chân lý tất cả Pháp đồng một tướng? Mười một là thường nên viên mãng sự diệt trừ phân biệt? Mười hai là thường nên viên mãng sự xa lì các vọng tướng? Mười ba là thường viên mãng sự xa lì các kiến? Mười bốn là thường nên viên mãng sự xa lì phiền não? Mười lăm là thường viên mãng sự thiện xảo khi tu chỉ quán? Mười sáu là thường nên viên mãng sự điều phục tâm tánh? Mười bảy là thường nên viên mãng sự vắng lặng tâm tánh? Mười tám là thường nên viên mãng tánh của trí vô ngại? Mười chín là thường nên viên mãng không có sự ái nhiễm? Hai mươi là thường nên viên mãng tùy tâm mong cầu đến các cõi Phật, ở trong chúng hội Phật đó mà hiện thân ra? Thiện hiện nên biết, khi trụ địa thứ bảy, các đại Bồ Tát nên xa lịa hai mươi Pháp trước và thường nên viên mãng hai mươi Pháp sau. Lại nữa, thiện hiện, khi trụ địa thứ tám, các đại Bồ Tát thường nên viên mãng bốn Pháp. Những gì là bốn? Một là thường nên viên mãng sự ngộ nhập tâm hành của tất cả hữu tình. Hai là thường nên viên mãng du hí thần thông. Ba là thường nên viên mãng sự trang nghiêm cõi Phật cho chính mình, giống như các cõi Phật mà mình đã được thấy. Bốn là thường nên viên mãng phụng sự cúng dường chư Phật Thế Tôn, đối với thần như Lai phải như thật quán sát. Thiện hiện nên biết, khi trụ địa thứ tám, các đại Bồ Tát thường nên viên mãng bốn Pháp này. Lại nữa, thiện hiện, khi trụ địa thứ chính, các đại Bồ Tát thường nên viên mãng bốn Pháp. Những gì là bốn? Một là thường nên viên mãng trí căng thắng liệt. Hai là thường nên viên mãng nhiêm tình cõi Phật. Ba là thường nên viên mãng thường nhập các định như huyển đẳng tri. Bốn là thường nên viên mãng làm cho thiện căng của các hữu tình được thành thục, mà nhập vào các cõi bằng cách giáo hóa chúng sanh. Thiện hiện nên viết, khi trụ địa thứ chính, các đại Bồ Tát thường nên viên mãng bốn Pháp này. Lại nữa, thiện hiện, khi trụ địa thứ mười, các đại Bồ Tát thường nên viên mãng mười hai Pháp. Những gì là mười hai? Một là thường nên viên mãng lãnh thọ vô biên đại nguyện không lượng nơi nào, tùy theo sở nguyện đều được thành tựu. Hai là thường nên viên mãng trí nghe được các loại âm thanh khác nhau, Chiêu Thiên, Rồng, Dược Xoa, Kiền Đạc Phược, A Tố Lạc, Ít Lộ Trà, Phẫn Nại Lạc, Mạc Hô Lạc Già, Nhân Phi Nhân V.V. Ba là thường nên viên mãng biện thuyết vô ngại. Bốn là thường nên viên mãng nhập thai đầy đủ. Năm là thường nên viên mãng sự chào đời đầy đủ. Sáu là thường nên viên mãng gia tộc đầy đủ. Bảy là thường nên viên mãng dòng họ đầy đủ. Tám là thường nên viên mãng quyến thuộc đầy đủ. Chính là thường nên viên mãng sanh thân đầy đủ. Mười là thường nên viên mãng xuất gia đầy đủ. Mười một là thường nên viên mãng trang nghiêm cội bồ đề đầy đủ. Mười hai là thường nên viên mãng tất cả công đức thành tựu đầy đủ. Thiện hiện nên biết, khi trụ địa thứ mười, các Đại Bồ Tát thường nên viên mãng mười hai pháp này. Thiện hiện nên biết, Đại Bồ Tát nào trụ địa thứ mười rồi, đối với ta thắng pháp đã tu ở các địa trước đều được viên mãng, cùng nói lời thích ứng với các như lai không khác. Cụ thỏ thiện hiện bạch Phật Bạch Thế Tôn Thế nào là Đại Bồ Tát dùng vô sở đắc làm phương tiện, nên khéo tu trị nghiệp tịnh thắng ý lạc? Phật bảo thiện hiện Đại Bồ Tát nào dùng tác ý tương tương với trí nhất thiết trí, tu tập tất cả căn lạnh thù thắng? Đó là Đại Bồ Tát dùng vô sở đắc làm phương tiện, nên khéo tu trị nghiệp tịnh thắng ý lạc. Bạch Thế Tôn Thế nào là Đại Bồ Tát dùng vô sở đắc làm phương tiện, khéo tu trị nghiệp bình đẳng với tất cả hữu tình? Thiện hiện Đại Bồ Tát nào dùng tác ý tương tương với trí nhất thiết trí, phát bốn tâm vô lượng từ, đi, khỉ, xã? Đó là Đại Bồ Tát dùng vô sở đắc làm phương tiện, khéo tu trị nghiệp bình đẳng với tất cả hữu tình. Bạch Thế Tôn Thế nào là Đại Bồ Tát dùng vô sở đắc làm phương tiện, khéo tu trị nghiệp xã thí tất cả? Thiện hiện Đại Bồ Tát nào khi hành bố thí không có sự phân biệt đối với tất cả hữu tình? Đó là Đại Bồ Tát dùng vô sở đắc làm phương tiện, khéo tu trị tất cả nghiệp xã thí. Bạch Thế Tôn Thế nào là Đại Bồ Tát dùng vô sở đắc làm phương tiện, khéo tu trị nghiệp thân cận bạn lành? Thiện hiện Đại Bồ Tát nào thấy các thiện hữu khuyến hóa hữu tình, khiến chúng tu tập trí nhất thiết trí, liền gần gũi cung kính, cúng dường, tôn trọng, ngời khen, học hỏi chánh pháp, ngày đêm thừa phụng, tâm không biến nhát? Đó là Đại Bồ Tát dùng vô sở đắc làm phương tiện, khéo tu trị nghiệp thân cận bạn lành. Bạch Thế Tôn Thế nào là Đại Bồ Tát dùng vô sở đắc làm phương tiện, khéo tu trị nghiệp xiên năng cầu chánh pháp? Thiện hiện Đại Bồ Tát nào tác ý tương ưng với trí nhất thiết trí, xiên năng cầu chánh pháp vô thường của Như Lai, chẳng rơi vào địa vị thanh văn và độc giác? Đó là Đại Bồ Tát dùng vô sở đắc làm phương tiện, khéo tu trị nghiệp xiên năng cầu chánh pháp. Bạch Thế Tôn Thế nào là Đại Bồ Tát dùng vô sở đắc làm phương tiện, nên khéo tu trị nghiệp thường muốn xuất gia? Thiện hiện Đại Bồ Tát nào dù sanh bất cứ nơi nào, cũng nhằm chán gia cư ồn ào, phức tạp, chèn ép, ngột ngạt như lao ngục, thường vui thích phật pháp và xuất gia thanh tịnh, tịch tịnh vô vi, như hư không không ngăn ngại. Đó là Đại Bồ Tát dùng vô sở đắc làm phương tiện, khéo tu trị nghiệp thường muốn xuất gia. Bạch Thế Tôn Thế nào là Đại Bồ Tát dùng vô sở đắc làm phương tiện, khéo tu trị nghiệp chính mến thân Phật? Thiện hiện Đại Bồ Tát nào trong thế hình tướng đức Phật, giàu chỉ một lần, cho đến khi chính được chí nhất thiết ký, luôn luôn nhớ nghĩ đến Phật? Đó là Đại Bồ Tát khéo dùng vô sở đắc làm phương tiện, khéo tu trị nghiệp chính mến thân Phật. Bạch Thế Tôn Thế nào là Đại Bồ Tát dùng vô sở đắc làm phương tiện, khéo tu trị nghiệp diễn dương giáo Pháp? Thiện hiện Khi Phật còn tại thế và sau miết bàn, Đại Bồ Tát vì các hữu tình diễn dương giáo Pháp, đầu giữa sau đều thiện, văn nghĩa tinh thảo, thuần nhất viên mãn, phạm hành thanh tịnh. Đó là khế kinh, ứng tụng, ký biệt, phúng tụng, tử thuyết, bổn sanh, bổn sự, duyên khởi, thí dụ, phương quảng, hy pháp và luận nghị. Đó là Đại Bồ Tát dùng vô sở đắc làm phương tiện, khéo tu trị nghiệp diễn dương giáo Pháp. Bạch Thế Tôn Thế nào là Đại Bồ Tát dùng vô sở đắc làm phương tiện, khéo tu trị nghiệp phá hoại kiêu mạng? Thiện hiện Đại Bồ Tát nào đen tâm cung chính khiêm nhường, chế ngự tâm kiêu mạng, do đó không sanh vào dòng họ thấp hèn? Đó là Đại Bồ Tát dùng vô sở đắc làm phương tiện, khéo tu trị nghiệp phá hoại kiêu mạng. Bạch Thế Tôn Thế nào là Đại Bồ Tát dùng vô sở đắc làm phương tiện, khéo tu trị nghiệp thường ưa thích lời chân thật? Thiện hiện Đại Bồ Tát nào biết đúng mới nói, lời nói và việc làm hợp nhau? Đó là Đại Bồ Tát dùng vô sở đắc làm phương tiện, khéo tu trị nghiệp thường ưa thích lời chân thật. Thiện hiện nên biết, khi trụ địa thứ nhất, các Đại Bồ Tát nên khéo tu trị 10 tháng nghiệp này khiến chúng mau viên mãn. Bạch Thế Tôn Thế nào là Đại Bồ Tát thanh tịnh tịnh giới? Thiện hiện Đại Bồ Tát nào không khởi tâm thanh văn, đọc giác V, V, và các pháp khác như phá giới, ngăn bồ đệ? Đó là Đại Bồ Tát thanh tịnh tịnh giới. Bạch Thế Tôn Thế nào là Đại Bồ Tát biết ơn và báo đáp ơn? Thiện hiện Đại Bồ Tát nào khi hành các hành thù thắng của Bồ Tát, được chúc ân huệ của người, còn phải đệnh đáp xứng đáng, huống gì được ơn lớn lại chẳng đáp đệnh cho tương xứng sao? Đó mới là Đại Bồ Tát biết ơn báo đáp ơn. Bạch Thế Tôn Thế nào là Đại Bồ Tát trụ năng lực an nhẫn? Thiện hiện Đại Bồ Tát nào, mặc dù tất cả hữu tình đều muốn phá hại, nhưng Đại Bồ Tát không hề có tâm vực tức, làm hại họ? Đó là Đại Bồ Tát trụ năng lực an nhẫn. Bạch Thế Tôn Thế nào là Đại Bồ Tát cảm nhận sự hoan hỷ thù thắng? Thiện hiện Đại Bồ Tát nào thấy các hữu tình thành thục được hạnh tam thừa nên thăm tâm vui mừng? Đó là Đại Bồ Tát nhận được sự hoan hỷ thù thắng. Bạch Thế Tôn Thế nào là Đại Bồ Tát không bỏ hữu tình? Thiện hiện Đại Bồ Tát nào thường cứu vớt khắp tất cả hữu tình, làm cho họ xa lìa khổ nạn? Đó là Đại Bồ Tát không bỏ hữu tình. Bạch Thế Tôn Thế nào là Đại Bồ Tát thường khởi đại bi? Thiện hiện Đại Bồ Tát nào nghĩ ta vì lợi ích tất cả hữu tình, dùng nhiều kiếp như vô lượng, vô số các sông hàng, ở đại điện mục chịu nhiều khổ sở nặng nệ, hoặc đốt, hoặc nấu, hoặc chặt, hoặc cắt, hoặc treo, hoặc mài hoặc giả vê, vê, chịu vô lượng sự thống khổ như thế, đến đổi khiến các loại hữu tình kia cửi xe như lai mài nhập niếc bàn. Cứ như vậy cho đến hết cảnh giới tất cả hữu tình, nhưng tầm đại bi của ta vẫn không lười mỏi. Đó là Đại Bồ Tát thường khởi đại bi. Bạch Thế Tôn Thế nào là Đại Bồ Tát đen tâm kính tính các sư trưởng, thường phụng sự cúng dường như phụng sự chư Phật? Thiện hiện Đại Bồ Tát nào vì cầu quả vị vô thường chánh đẳng bồ đệ, nên cung kính, tùy thuận sư trưởng, nhưng không bị luyến ái? Đó là Đại Bồ Tát đen tâm kính tính các sư trưởng, thường phụng sự cúng dường như phụng sự chư Phật. Bạch Thế Tôn Thế nào là Đại Bồ Tát xiên cầu tu tập Ba-la-mật-đa? Thiện hiện Đại Bồ Tát nào chuyên tâm tu học tất cả Ba-la-mật-đa, chẳng đoái hoài đến các việc khác, vì muốn thành thuộc tất cả hữu tình? Đó là Đại Bồ Tát xiên cầu tu tập Ba-la-mật-đa. Thiện hiện nên biết, khi trụ địa thứ hai, các Đại Bồ Tát nên tư duy và học khiến cho mau viên mãn tám pháp này. Bạch Thế Tôn Thế nào là Đại Bồ Tát xiên cầu đa văn, thường không nhảm chán pháp đã nghe, cũng không chấp trước văn tự? Thiện hiện Đại Bồ Tát nào phát khởi sự siêng năng tinh tấn nghĩ, nếu tất cả như lại ứng chánh đặng giác trong cõi Phật này, hoặc mười phương thế giới đã thuyết giảng chánh pháp, thì ta sẽ lắng nghe, thòi trì, đọc tụng, tu học trốt tráo, không để thiếu sót nhưng không chấp trước văn tự trong đó. Đó là Đại Bồ Tát xiên cầu đa văn, thường không nhảm chán pháp đã nghe, cũng chẳng chấp trước văn tự. Bạch Thế Tôn Thế nào là Đại Bồ Tát đem tâm vô nhiễm, thường hành pháp thí, dù mở rộng sự giáo hóa nhưng chẳng tự cao? Thiện hiện Đại Bồ Tát nào vì các hữu tình thuyết giảng chánh pháp, chứ chẳng phải vì đem căng lành này hồi hướng quả bồ đệ, húng chi cầu những việc khác, tuy giáo hóa nhiều nhưng chẳng buông lung, kêu căng? Đó là Đại Bồ Tát thường đem tâm vô nhiễm, thực hành pháp thí, dù mở rộng sự giáo hóa nhưng chẳng tự cao. Bạch Thế Tôn Thế nào là Đại Bồ Tát vì nghiêm tịnh cõi Phật, nên trồng các căng lành, tuy để hồi hướng nhưng chẳng tự cao? Thiện hiện Đại Bồ Tát nào tinh tấn giọng mảnh tu các căng lành, vì muốn trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật, vì muốn thanh tịnh cõi lòng của chính mình và của mọi người, tuy làm như vậy nhưng chẳng tự cao? Đó là Đại Bồ Tát vì nghiêm tịnh cõi Phật nên trồng các căng lành tuy để hồi hướng nhưng chẳng tự cao. Bạch Thế Tôn Thế nào là Đại Bồ Tát vì giáo hóa hữu tình, dù chẳng nhảm chán với vô biên sanh tử nhưng không buông lung, kêu căng? Thiện hiện Đại Bồ Tát nào vì muốn thành thuộc tất cả hữu tình nên trồng các căng lành, trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật, cho đến chư viên mãn trí nhất thiết trí, chư thành tự trọn vẹn tất cả Phật Pháp, thì dù phải chịu vô biên sanh tử, hổ nhọc nhưng không hề nhảm chán mỏi mệt, cũng chẳng tự cao? Đó là Đại Bồ Tát vì giáo hóa hữu tình, dù chẳng nhảm chán với vô biên sanh tử nhưng không buông lung, kêu căng. Bạch Thế Tôn Thế nào là Đại Bồ Tát tuy có hổ thẹn nhưng không chấp trước? Thiện hiện Đại Bồ Tát nào chuyên cầu quả vị vô thường chánh đẳng bồ đệ, vì đầy đủ hổ thẹn nên quyết không khởi lên tác ý về thanh văn, độc giác, nhưng ở trong đó không được chấp trước, không sanh nhảm chán mà hủy bán? Đó là Đại Bồ Tát tuy có hổ thẹn nhưng không chấp trước. Thiện hiện nên biết, khi trụ địa thứ ba, các Đại Bồ Tát nên an trụ năm Pháp như vậy, xiên năng, tinh tấn tu tập khiến mau viên mãn. Bạch Thế Tôn Thế nào là Đại Bồ Tát trụ chỗ vắng vẻ thường không từ bỏ? Thiện hiện Đại Bồ Tát nào vì cầu quả vị vô thường chánh đẳng bồ đệ, tuy vượt những bậc của thanh văn, độc giác, nhưng thường chẳng từ bỏ chỗ vắng vẻ? Đó là Đại Bồ Tát trụ chỗ vắng vẻ thường không từ bỏ. Bạch Thế Tôn Thế nào là Đại Bồ Tát thường ưa sự thiểu dục? Thiện hiện Đại Bồ Tát không vì bản thân mà mong cầu quả vị vô thường chánh đẳng bồ đệ, huống chi mong cầu những việc của thế gian và hàng nhị thưa. Đó là Đại Bồ Tát thường ưa thiểu dục. Bạch Thế Tôn Thế nào là Đại Bồ Tát thường ưa hỷ túc? Thiện hiện Đại Bồ Tát nào chuyên cầu quả vị vô thường chánh đẳng bồ đệ nên không chấp trước các việc khác? Đó là Đại Bồ Tát thường ưa hỷ túc. Bạch Thế Tôn Thế nào là Đại Bồ Tát thường chẳng lìa bỏ công đức đầu đa? Thiện hiện Đại Bồ Tát nào xét kỹ pháp nhẫn trong giáo pháp thâm sâu của Phật? Đó là Đại Bồ Tát thường chẳng lìa bỏ công đức đầu đa. Bạch Thế Tôn Thế nào là Đại Bồ Tát thường chẳng xả bỏ các học xứ? Thiện hiện Đại Bồ Tát nào giữ vững giới đã học, chẳng giờ đổi cũng chẳng chấp thủ tướng của chúng? Đó là Đại Bồ Tát thường chẳng xả bỏ các học xứ. Bạch Thế Tôn Thế nào là Đại Bồ Tát trước nhàm chán, muốn xa lìa các dục lạc? Thiện hiện Đại Bồ Tát nào chẳng khởi lòng dục đối với dục lạc hấp dẫn? Đó là Đại Bồ Tát nhàm chán, muốn xa lìa các dục lạc. Bạch Thế Tôn Thế nào là Đại Bồ Tát thường muốn phát khởi tâm tương ưng niết bàn? Thiện hiện Đại Bồ Tát nào hiểu biết hết tất cả pháp thường không tạo tác? Đó là Đại Bồ Tát thường muốn phát khởi niết bàn tương ưng với tâm. Bạch Thế Tôn Thế nào là Đại Bồ Tát thường muốn xả bỏ tất cả vật? Thiện hiện Đại Bồ Tát nào thường không chấp thủ nội ngoại pháp? Đó là Đại Bồ Tát thường muốn xả bỏ tất cả vật. Bạch Thế Tôn Thế nào là Đại Bồ Tát chẳng mê mùi bất cứ lúc nào? Thiện hiện Đại Bồ Tát nào đối với các thứ, tâm an trụ nhưng không chấp trước? Đó là Đại Bồ Tát chẳng mê mùi bất cứ lúc nào. Bạch Thế Tôn Thế nào là Đại Bồ Tát thường không luyến tiết tất cả sự việc? Thiện hiện Đại Bồ Tát nào chẳng có tư duy gì về tất cả sự việc? Đó là Đại Bồ Tát thường không luyến tiết tất cả sự việc. Thiện hiện nên biết, khi trụ địa thứ tư, các Đại Bồ Tát phải thường thọ trì không được tạm ngừng đối với mùi pháp này. Bạch Thế Tôn Thế nào là Đại Bồ Tát xa lì gia trưa? Thiện hiện Đại Bồ Tát nào tánh ưa dạo chơi cõi nước của chư Phật, sanh ở chỗ nào cũng muốn xuất da, cạo bỏ râu tóc, ôm bình bát, mặc ba pháp y, hiện làm sa môn? Đó là Đại Bồ Tát xa lì gia trưa. Bạch Thế Tôn Thế nào là Đại Bồ Tát nên xa lì bí sô ni? Thiện hiện Đại Bồ Tát nào thường phải xa lì các bí sô ni, không cùng họ ở chung trong khoảng thời gian rất ngắn, chẳng khởi tâm xấu về họ? Đó là Đại Bồ Tát xa lì bí sô ni. Bạch Thế Tôn Thế nào là Đại Bồ Tát nên xa lì nhà keo kiệt? Thiện hiện Đại Bồ Tát nào suy nghĩ như vậy, ta nên vì lợi ích an vui lâu dại cho tất cả hữu tình, khiến hữu tình này nương nhờ phước lực của họ mà cảm được, làm vị thí chủ tốt như vậy, vì thế ở trong đây ta chớ nên keo kiệt, ganh ghét. Suy nghĩ như vậy rồi, vì ấy xa lì nhà keo kiệt. Đó là Đại Bồ Tát xa lì nhà keo kiệt. Bạch Thế Tôn Thế nào là Đại Bồ Tát nên xa lì hội chúng tranh cãi, tức giận? Thiện hiện Đại Bồ Tát nào suy nghĩ thế này, hội chúng nào gồm thanh văn và độc giác, trong đó nói pháp yếu tương tương với hàng nghị thừa, làm cho ta lui mất tâm Đại Bồ Đề. Vì thế, ta quyết định nên xa lì chúng hội ấy. Lại nghĩ như vậy, những kẻ hay tức giận tranh cãi ấy có thể làm cho các hữu tình phát khởi sự sân hại, tạo ra nhiều loại nghiệt ác bất thiện. Đối với đường lành còn chống trái húng gì Đại Bồ Đề? Vì thế quyết định xa lì sự tức giận tranh cãi. Đó là Đại Bồ Tát nên xa lì hội chúng tranh cãi tức giận. Bạch Thế Tôn Thế nào là Đại Bồ Tát nên xa lì sự khen mình chê người? Thiện hiện Đại Bồ Tát nào không thấy có pháp trong, pháp ngoài, xa lì sự khen mình chê người? Đó là Đại Bồ Tát nên xa lì sự khen mình chê người. Bạch Thế Tôn Thế nào là Đại Bồ Tát nên xa lì 10 nghiệp đạo ác? Thiện hiện Đại Bồ Tát nào suy nghĩ thế này, đối với cảnh giới thiện như trời, người mà 10 điều ác này còn ngăn ngại như vậy, húng gì đối với Thánh Đạo và Đại Bồ Đề? Thế nên nhất định ta phải xa lì chúng. Đó là Đại Bồ Tát nên xa lì 10 nghiệp đạo ác. Bạch Thế Tôn Thế nào là Đại Bồ Tát nên xa lì sự tăng thượng mạng? Thiện hiện Đại Bồ Tát nào hoàn toàn không thấy có các pháp trong và ngoài đáng để mà phát khởi sự tăng thượng mạng. Vì thế nên quyết định xa lì sự tăng thượng mạng như vậy. Đó là Đại Bồ Tát nên xa lì tăng thượng mạng. Bạch Thế Tôn Thế nào là Đại Bồ Tát nên xa lì sự điên đảo? Thiện hiện Đại Bồ Tát nào quán các sự điên đảo hoàn toàn bất khả đắc, vì thế nhất định phải xa lì sự điên đảo. Đó là Đại Bồ Tát nên xa lì sự điên đảo. Bạch Thế Tôn Thế nào là Đại Bồ Tát nên xa lì sự do dự? Thiện hiện Đại Bồ Tát nào xếp thấy sự do dự hoàn toàn bất khả đắc, vì thế nên quyết định xa lì sự do dự. Đó là Đại Bồ Tát nên xa lì sự do dự. Bạch Thế Tôn Thế nào là Đại Bồ Tát nên xa lì tham, sân, si? Thiện hiện Đại Bồ Tát nào hoàn toàn không thấy có tham, sân, si, nên xa lì ba độc này? Đó là Đại Bồ Tát nên xa lì tham, sân, si. Thiện hiện nên biết, khi trụ địa thứ năm, các Đại Bồ Tát phải thường xa lìa, không nên gần gũi, tu tập theo mùi pháp này. Bạch Thế Tôn Thế nào là Đại Bồ Tát nên viên mãn sáu pháp Palamudda? Thiện hiện Đại Bồ Tát nào viên mãn sáu pháp Palamudda, vượt qua các bậc thanh văn, độc giác V.V. Nếu trụ vào sáu Palamudda này, thì thánh chúng tam thừa có thể vượt qua năm loại sở trì đến bờ giác. Những gì là năm? Một là quá khứ, hai là vị lai, ba là hiện tại, bốn là vô vi, năm là bất khả thuyết. Cho nên Đại Bồ Tát nhất định phải viên mãn bố thí V.V. sáu pháp Palamudda. Đó là Đại Bồ Tát nên viên mãn sáu pháp Palamudda. Bạch Thế Tôn Thế nào là Đại Bồ Tát nên xa lìa tam thanh văn? Thiện hiện Đại Bồ Tát nào nghĩ như vậy, tam thanh văn thừa chẳng phải đạo để chứng quả vị vô thường chánh đẳng bồ đệ nên phải xa lìa. Vì sao? Vì nhằm chán sanh tử. Đó là Đại Bồ Tát nên xa lìa tam thanh văn. Bạch Thế Tôn Thế nào là Đại Bồ Tát nên xa lìa tam độc giác? Thiện hiện Đại Bồ Tát nào nghĩ như vậy, tam độc giác thừa chẳng phải đạo để chứng quả vị vô thường chánh đẳng bồ đệ nên phải xa lìa. Vì sao? Vì ưa thích niết bàn. Đó là Đại Bồ Tát nên xa lìa tam độc giác. Bạch Thế Tôn Thế nào là Đại Bồ Tát nên xa lìa tam nhiệt não? Thiện hiện Đại Bồ Tát nào nghĩ như vậy, tam nhiệt não vì lo sợ sanh tử chẳng phải đạo để chứng quả vị vô thường chánh đẳng bồ đệ nên phải xa lìa. Vì sao? Vì sợ sanh tử. Đó là Đại Bồ Tát nên xa lìa tam nhiệt não. Bạch Thế Tôn Thế nào là Đại Bồ Tát nên xa lìa tam mỗi khi thấy người nào đến sinh sầu não, chẳng vui? Thiện hiện Đại Bồ Tát nào nghĩ như vậy, tam yêu sầu không vui này chẳng phải đạo để chứng quả vị vô thường chánh đẳng bồ đệ nên phải xa lìa. Vì sao? Vì cái với từ bi. Đó là Đại Bồ Tát nên xa lìa tam hể thấy người nào đến sinh sầu não, chẳng vui. Bạch Thế Tôn Thế nào là Đại Bồ Tát nên xa lìa tam hối tiếc, buồn rầu hối hận đối với vật sở hữu đã cho? Thiện hiện Đại Bồ Tát nào nghĩ như vậy, tam hối tiếc này chẳng phải đạo để chứng quả vị vô thường chánh đẳng bồ đệ nên phải xa lìa. Vì sao? Vì trái nghịch với bản nguyện. Nghĩa là trước đây khi phát bồ đệ tâm, ta có nguyện, tất cả vật sở hữu của ta tùy theo mong cầu của kẻ đến sinh đều thí cho hết, chẳng để họ thiếu thốn. Thế mà hôm nay đã cho sao còn hối tiếc? Đó là Đại Bồ Tát nên xa lìa tam hối tiếc đối với vật sở hữu đã cho. Bạch Thế Tôn Thế nào là Đại Bồ Tát nên xa lìa tam tìm cách lẫn tránh đối với kẻ đến sinh? Thiện hiện Đại Bồ Tát nào nghĩ như vậy, tâm lẫn tránh này chẳng phải đạo để chứng quả vị vô thường chánh đẳng bồ đệ nên phải xa lìa. Vì sao? Vì trái với lời nguyện ban đầu. Nghĩa là trước đây khi phát bồ đệ tâm, ta có nguyện, phàm ai đến sinh những vật sở hữu của ta, ta đều cho theo nhu cầu của họ, chẳng để họ thiếu thốn. Tại sao hôm nay lại trốn tránh họ? Đó là Đại Bồ Tát nên xa lìa tâm trốn tránh với kẻ đến sinh. Thiện hiện nên biết, khi trụ địa thứ sáu, các Đại Bồ Tát thường nên viên mãn sáu pháp đã nói ở trước, và nên xa lìa sáu pháp đã nói ở sau, nhưng trong đó không có sự chấp thủ.