Home Page
cover of kinhdaibatnha (499)
kinhdaibatnha (499)

kinhdaibatnha (499)

Phuc Tien

0 followers

00:00-43:27

Nothing to say, yet

Podcastspeech synthesizerspeechnarrationmonologueconversation
0
Plays
0
Shares

Audio hosting, extended storage and much more

AI Mastering

Transcription

Kinh Đại Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa Tập 20, Quyện 499, 4 Phẩm Thiên Đế 02. Lại nữa, Kiều Thi Ca. Nếu Đại Bồ-Tát nào khi hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa sâu xa mà quán như vậy, chỉ có các Pháp trợ duyên với nhau, thấm nhường tăng trưởng, lần lực biến khắp. Trong đó hoàn toàn không có ngã và ngã sở. Như thật quán sát bất khả đắc. Lại khởi tâm quán, các Đại Bồ-Tát dùng sự tu tập thiện căng thù thắng, đem cho các hữu tình một cách bình đẳng, rồi cùng nhau hồi hướng đến quả vị vô thường chánh đẳng Bồ-Đệ. Tu tập tâm thiện căng không cùng với tâm hồi hướng hòa hợp, tâm hồi hướng không cùng với tu tập tâm thiện căng hòa hợp. Tâm hồi hướng không cùng với tâm Bồ-Đệ hòa hợp, tâm Bồ-Đệ cũng không cùng với tâm hồi hướng hòa hợp. Tu tập tâm thiện căng đối với tâm hồi hướng, vô sở hữu, bất khả đắc, tâm hồi hướng đối với tu tập tâm thiện căng cũng vô sở hữu, bất khả đắc. Tâm hồi hướng đối với tâm Bồ-Đệ vô sở hữu, bất khả đắc, tâm Bồ-Đệ đối với tâm hồi hướng cũng vô sở hữu, bất khả đắc. Các Đại Bồ-Tát tuy như thật quán các Pháp nhưng đối với các Pháp hoàn toàn không thấy quán. Kiều Thi Ca Đây gọi là Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa sâu xa của Đại Bồ-Tát. Khi ấy, Trời Ê-Thiếp hỏi thiện hiện. Bạch Đại Đức Vì sao đối với các Đại Bồ-Tát, tu tập tâm thiện căng không cùng với tâm hồi hướng hòa hợp, tâm hồi hướng cũng không cùng với tu tập tâm thiện căng hòa hợp. Tâm hồi hướng không cùng với tâm Bồ-Đệ hòa hợp, tâm Bồ-Đệ cũng không cùng với tâm hồi hướng hòa hợp. Tu tập tâm thiện căng đối với tâm hồi hướng vô sở hữu, bất khả đắc, tâm hồi hướng đối với tu tập tâm thiện căng cũng vô sở hữu, bất khả đắc. Tâm hồi hướng đối với tâm Bồ-Đệ vô sở hữu, bất khả đắc, tâm Bồ-Đệ đối với tâm hồi hướng cũng vô sở hữu, bất khả đắc. Thiện hiện đắc Kiều Thi Ca Đối với các Đại Bồ-Tát tu tập tâm thiện căng thì chẳng phải tâm, tâm hồi hướng, tâm Bồ-Đệ cũng chẳng phải tâm. Không thể dùng phi tâm mà có sự tu tập, hoặc có hồi hướng, hoặc nơi hồi hướng. Không thể dùng phi tâm mà hồi hướng phi tâm. Tâm cũng không nên hồi hướng phi tâm. Phi tâm không nên hồi hướng đối với tâm. Tâm cũng không nên hồi hướng đối với tâm. Vì sao? Kiều Thi Ca Vì phi tâm tức là bất tư nghì. Bất tư nghì tức là phi tâm. Cả hai loại như vậy đều vô sở hữu. Trong vô sở hữu không có nghĩa hồi hướng. Kiều Thi Ca Tâm không tự tánh, tâm sở cũng vậy. Tâm và tâm sở đã không tự tánh, nên tâm cũng không có nghĩa với hồi hướng tâm. Kiều Thi Ca Các Đại Bồ-Tát nếu quán như vậy thì gọi là Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa sâu xa của Đại Bồ-Tát. Lúc ấy, Thế Tôn khen ngợi thiện hiện Lành Thay Lành Thay Này ông khéo vì các Đại Bồ-Tát mà tuyên thuyết Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa, cũng hay khuyến khích các Đại Bồ-Tát siêng năng hoang hỷ tu tập Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa. Cụ thọ thiện hiện Bạch Phật Bạch Thế Tôn Còn đã biết ơn, sao lại không đáp đền? Vì sao? Vì thời quá khứ chư Phật và chúng đệ tử đã vì các Đại Bồ-Tát mà tuyên thuyết sáu pháp Ba-La-Mật-Đa, bằng cách thi hiện, dạy dỗ, hướng dẫn, khen ngợi, khích lệ, hoang hỷ, an ủi, kiến lập để cho họ được cứu cánh. Khi ấy, Thế Tôn cũng học ở trong đó, này đã chứng đắc quả vị vô thường chánh đẳng Bồ-Đệ, chuyển pháp luôn vị diệu, làm lợi ích cho chúng con. Vì vậy, ngày nay con phải theo lời Phật dạy, vì các Đại Bồ-Tát mà tuyên thuyết sáu pháp Ba-La-Mật-Đa, cũng thi hiện, dạy dỗ, hướng dẫn, khen ngợi, khích lệ, hoang hỷ, an ủi, kiến lập, làm cho họ được cứu cánh, mau chứng đắc quả vị vô thường chánh đẳng Bồ-Đệ, chuyển pháp luôn vị diệu đến tận đời vị lai, làm lợi ích an lạc cho tất cả hữu tình, thì mới gọi là đền đáp được ân đức kia. Bây giờ, cụ thò thiện hiện lại báo trời ế thích. Kiều Thi-ca Ngài hỏi vì sao Đại Bồ-Tát nên an trụ bát nhã Ba-La-Mật-Đa? Ngài hãy lắng nghe. Lắng nghe. Tôi sẽ vì ngại mà nói. Các Đại Bồ-Tát đối với bát nhã Ba-La-Mật-Đa sâu xa, nên an trụ vào chỗ chưa tình an trụ. Kiều Thi-ca Sát quẩn cho đến thức quẩn, sát quẩn cho đến thức quẩn là tánh không. Các Đại Bồ-Tát, các Đại Bồ-Tát là tánh không. Hoặc tánh không của sát quẩn cho đến thức quẩn, hoặc tánh không của các Đại Bồ-Tát, tất cả như thế đều không hai, không hai phần. Kiều Thi-ca Các Đại Bồ-Tát đối với bát nhã Ba-La-Mật-Đa sâu xa nên an trụ như vậy. Kiều Thi-ca Nhãn xứ cho đến ý xứ, nhãn xứ cho đến ý xứ là tánh không. Sát xứ cho đến pháp xứ, sát xứ cho đến pháp xứ là tánh không. Nhãn giới cho đến ý giới, nhãn giới cho đến ý giới là tánh không. Sát giới cho đến pháp giới, sát giới cho đến pháp giới là tánh không. Nhãn thức giới cho đến ý thức giới, nhãn thức giới cho đến ý thức giới là tánh không. Nhãn xuất cho đến ý xuất, nhãn xuất cho đến ý xuất là tánh không. Các thọ do nhãn xuất làm duyên sanh ra, cho đến các thọ do ý xuất làm duyên sanh ra, các thọ do nhãn xuất làm duyên sanh ra, cho đến các thọ do ý xuất làm duyên sanh ra là tánh không. Tịa giới cho đến thức giới, đi giới cho đến thức giới là tánh không. Nhân duyên cho đến tăng thượng duyên, nhân duyên cho đến tăng thượng duyên là tánh không. Vô minh cho đến lão tử, vô minh cho đến lão tử là tánh không. Vô minh diệt cho đến lão tử diệt, vô minh diệt cho đến lão tử diệt là tánh không. Bố thí ba la mật đa cho đến bát nhã ba la mật đa, bố thí ba la mật đa cho đến bát nhã ba la mật đa là tánh không. Pháp nội không cho đến Pháp vô tính tự tính không, Pháp nội không cho đến Pháp vô tính tự tính không là tánh không. Chân như cho đến cảnh giới bất tương nhị, chân như cho đến cảnh giới bất tương nhị là tánh không. Cảnh giới đoạn cho đến cảnh giới vô vi, cảnh giới đoạn cho đến cảnh giới vô vi là tánh không. Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo, thánh đế khổ, tập, diệt, đạo là tánh không. 4 niệm trụ cho đến 8 chi khánh đạo, 4 niệm trụ cho đến 8 chi khánh đạo là tánh không. 4 tình lự, 4 vô lượng, 4 định vô sắc, 4 tình lự, 4 vô lượng, 4 định vô sắc là tánh không. 8 giải thoát, 9 định thứ đệ, 8 giải thoát, 9 định thứ đệ là tánh không. Pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện, Pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện là tánh không. Tình quán địa cho đến như lai địa, tình quán địa cho đến như lai địa là tánh không. Cực khỉ địa cho đến Pháp vân địa, cực khỉ địa cho đến Pháp vân địa là tánh không. 5 loại mắt, 6 phép thần thông, 5 loại mắt, 6 phép thần thông là tánh không. 10 lực như lai cho đến 18 Pháp Phật bất cộng, 10 lực như lai cho đến 18 Pháp Phật bất cộng là tánh không. Pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả, Pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả là tánh không. Tất cả Pháp môn Đà-La-Ni, Pháp môn Tam-Ma địa, Tất cả Pháp môn Đà-La-Ni, Pháp môn Tam-Ma địa là tánh không. Thanh văn, độc giác, vô thượng thừa, Thanh văn, độc giác, vô thượng thừa là tánh không. Dự lưu cho đến như lai, dự lưu cho đến như lai là tánh không. Trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng là tánh không. Các đại Bồ-Tát, các đại Bồ-Tát là tánh không. Hoặc tánh không của nhãn xứ cho đến trí nhất thiết tướng, hoặc tánh không của các đại Bồ-Tát. Tất cả như vậy đều không hai, không hai phần. Kiều Thi-ca Các đại Bồ-Tát đối với bát nhã Ba-la-mật-đa sâu xa nên an trụ như vậy. Khi ấy, Trời Ê Thích hỏi Thiện Hiện Vì sao đại Bồ-Tát khi hành bát nhã Ba-la-mật-đa sâu xa không nên trụ chỗ nào? Thiện Hiện Đắc Kiều Thi-ca Các đại Bồ-Tát khi hành bát nhã Ba-la-mật-đa sâu xa không nên trụ sát quẩn, không nên trụ thọ, tưởng, hành, thước quẩn. Vì sao? Vì còn dùng có sở đắc làm phương tiện. Như vậy cho đến không nên trụ trí nhất thiết, không nên trụ trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Vì sao? Vì còn dùng có sở đắc làm phương tiện. Lại nữa, Kiều Thi-ca Các đại Bồ-Tát khi hành bát nhã Ba-la-mật-đa sâu xa không nên trụ đây là sát quẩn, không nên trụ đây là thọ, tưởng, hành, thước quẩn. Vì sao? Vì còn dùng có sở đắc làm phương tiện. Như vậy cho đến không nên trụ đây là trí nhất thiết, không nên trụ đây là trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Vì sao? Vì còn dùng có sở đắc làm phương tiện. Lại nữa, Kiều Thi-ca Các đại Bồ-Tát khi hành bát nhã Ba-la-mật-đa sâu xa không nên trụ sát quẩn cho đến thước quẩn là thường hay vô thường, hoặc vui, khổ, ngã, vô ngã, tỉnh, bất tỉnh, không, bất không, hữu tướng, vô tướng, hữu nguyện, vô nguyện, tịch tỉnh, bất tịch tỉnh, viễn ly, bất viễn ly. Vì sao? Vì còn dùng có sở đắc làm phương tiện. Như vậy cho đến không nên trụ trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng là thường hay vô thường, hoặc vui, khổ, ngã, vô ngã, tỉnh, bất tỉnh, không, bất không, hữu tướng, vô tướng, hữu nguyện, vô nguyện, tịch tỉnh, bất tịch tỉnh, viễn ly, bất viễn ly. Vì sao? Vì còn dùng có sở đắc làm phương tiện. Lại nữa, Kiều Thi-ca Các Đại Bồ-Tát khi hành bát nhã Balamudda sâu xa, không nên trụ quả dự lưu là sự hiển hiện vô vi. Vì sao? Vì còn dùng có sở đắc làm phương tiện. Không nên trụ quả nhất lai, bất hoàng, à-la-háng, độc giáp bồ đệ, quả vị vô thường chánh đẳng bồ đệ của chư Phật là sự hiển hiện vô vi. Vì sao? Vì còn dùng có sở đắc làm phương tiện. Lại nữa, Kiều Thi-ca Các Đại Bồ-Tát khi hành bát nhã Balamudda sâu xa, không nên trụ dự lưu là phước điền đáng nhận sự cúng dương. Vì sao? Vì còn dùng có sở đắc làm phương tiện. Không nên trụ nhất lai, bất hoàng, à-la-háng, độc giáp, bồ tát, như lai là phước điền đáng nhận sự cúng dương. Vì sao? Vì còn dùng có sở đắc làm phương tiện. Lại nữa, Kiều Thi-ca Các Đại Bồ-Tát khi hành bát nhã Balamudda sâu xa, không nên trụ sơ địa. Vì sao? Vì còn dùng có sở đắc làm phương tiện. Không nên trụ đệ nhị địa cho đến thập địa. Vì sao? Vì còn dùng có sở đắc làm phương tiện. Lại nữa, Kiều Thi-ca Các Đại Bồ-Tát khi hành bát nhã Balamudda sâu xa, không nên trụ lúc mới phát tâm rồi nghĩ như vậy, ta nên viên mạng bố thí Balamudda cho đến bát nhã Balamudda. Ta nên viên mạng bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo. Ta nên viên mạng bốn tình lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Ta nên viên mạng tám giải thoát, chính định thứ đệ. Ta nên viên mạng pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện. Ta tu gia hành đã viên mạng, rồi vào tránh tánh ly xanh của Bồ-Tát. Ta đã đắc tránh tánh ly xanh rồi nên an trụ ở địa vị bất thối chuyển của Bồ-Tát. Ta nên viên mạng năm thần thông của Bồ-Tát. Ta trụ năm thần thông của Bồ-Tát viên mạng rồi nên du hóa đến vô lượng, vô số cõi Phật để đảnh lễ, chim ngưỡng, phụng sự, cúng dường chiêu Phật thế tôn, lắng nghe chánh pháp của chiêu Phật rồi như lý tư duy, để giảng động cho người khác. Ta nên trang nghiêm thanh tịnh quốc độ như chỗ ở của mười phương Phật, an lập hữu tình. Ta phải biến hóa quốc độ như chỗ ở của mười phương Phật, an lập hữu tình. Ta phải giáo hóa các loại hữu tình để họ chứng quả vị vô thường tránh đẳng Bồ-Đệ, hoặc đắc nghiết bàn, hoặc ở cõi lành. Ta phải đến vô lượng, vô số cõi Phật thân cận, phụng sự chiêu Phật thế tôn. Lại dùng vô biên hoa hương, chuỗi anh lạc, tràng phang, lọng báu, âm nhạc, y phục, thức ăn, nước uống và các vật dùng khác để cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen. Ta phải an lập vô lượng, vô số, vô biên hữu tình giúp họ đối với quả vị vô thường tránh đẳng Bồ-Đệ không còn thối chuyển. Vì sao? Vì còn dùng có sở đắc làm phương tiện. Lại nữa, Kiều Thi Ca. Các đại Bồ-Tát khi hành bác nhã ba la mật đa sâu xa, không nên chủ ý nghĩ như vậy, ta nên thành tựu năm loại mắt thanh tịnh, đó là nhục nhãng, thiên nhãng, tuệ nhãng, pháp nhãng, Phật nhãng. Không nên chủ ý nghĩ như vậy, ta nên thành tựu sáu phép thần thông thù thắng, đó là cảnh trí thông, thiên nhãng trí thông, thiên nhị trí thông, tha tâm trí thông, túc trụ tùy niệm trí thông, lậu tận trí thông. Không nên chủ ý nghĩ như vậy, ta nên thành tựu tất cả pháp môn Tam-ma-địa thù thắng, đối với các đảng trí, tùy tâm tự tại muốn an trụ. Không nên chủ ý nghĩ như vậy, ta nên thành tựu tất cả pháp môn Đa-la-ni thù thắng, đối với các tổng trí, sự nghiệp đã làm đều được tự tại. Không nên chủ ý nghĩ như vậy, ta nên thành tựu mười lực như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Không nên chủ ý nghĩ như vậy, ta nên thành tựu ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp của bậc đại sĩ để thân được trang nghiêm, khiến cho các hữu tình ai thấy đều hoan hỷ, chim ngưỡng không biết nhàm chán, tự thân được lợi lạc. Không nên chủ ý nghĩ như vậy, ta nên thành tựu pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả. Không nên chủ ý nghĩ như vậy, ta nên thành tựu trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, thông đạt các pháp nhưng không chấp trước, không chiếu ngại. Vì sao? Vì còn dùng có sở đắc làm phương tiện. Lại nữa, Kiều Thi Ca. Các đại bộ tác khi hành bác nhã ba la mật đa sâu xa, không nên chủ đây là tùy tính hành, đây là tùy pháp hành, đây là bậc đệ bác, đây là bậc dự lưu còn bảy lần sanh trở lại, đây là gia gia, đây là nhất gian, đây là bậc tề thủ cho đến đoạn tầng phiền não thọ mạng mới dứt, đây là dự lưu định không phải là pháp đọa, đây là pháp trung gian vào niết bàn, đây là nhất lai chỉ đến thế gian này một lần giúp trừ hết khổ, đây là bậc hoàng hướng, đây là bậc hoàng quả, qua bờ kia mới được vào niết bàn, đây là hãng hướng, đây là hãng quả, quyết vào vô dư niết bàn hiện tại, đây là độc giác, đây là bồ tác, vượt hơn địa vị thanh văn, độc giác V. V. An trụ địa vị đại bồ tác, tu trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, hiểu rõ tất cả pháp, tất cả tướng rồi đoạn trừ hẳn sự tương tục của tất cả tập phí kiếp sử phiền não, chính đắc quả vị vô thường chánh đẳng bồ đệ, được thành đấng như lai ứng chánh đẳng giác, đầy đủ oai lực lớn, rồi chuyển pháp lung vi diệu, làm các phật sự, đổ thoát vô lượng, vô số hữu tình, giúp họ chính đắc niết bàn, hoàn toàn an lạc. Vì sao? Vì còn dùng có sở đắc làm phương tiện. Lại nữa, Kiều Thi Ca. Các đại bồ tác khi hành bác nhã ba la mật đa sâu xa, không nên chủ ý nghĩ như vậy, ta phải khéo tu bốn thần túc, rồi an trụ đẳng trì thu thắng như thế. Do đẳng trì này mà ta tăng trưởng thế lực, để thọ mạng của ta được dài lâu suốt hàng hà sa đại kiếp. Không nên chủ ý nghĩ như vậy, ta phải hưởng được tuổi thọ vô lượng, vô biên. Không nên chủ ý nghĩ như vậy, ta nên thành tựu ba mươi hai tướng, mỗi một tướng này có trăm phước trang nghiêm, hữu tình nào thấy được đều sanh lợi lạc lớn. Không nên chủ ý nghĩ như vậy, ta nên thành tựu tám mươi vẻ đẹp, mỗi một vẻ đẹp này đều có vô số, vô lượng việc thu thắng hiếm có, hữu tình nào thấy được thì sanh lợi ít lớn. Không nên chủ ý nghĩ như vậy, ta phải an trụ một cõi thanh tịnh trang nghiêm, cõi ấy rộng lớn như hàng hà sa thế giới khắp mười phương. Không nên chủ ý nghĩ như vậy, ta phải an tọa trên một tòa bằng kim cương, tòa này lớn bằng ba ngàn đại thiên thế giới. Không nên chủ ý nghĩ như vậy, ta phải ngồi dưới cõi bồ đệ, cây này phải cao rộng, to lớn với nhiều bảo vật quý báu, nơi ấy thường tỏa ra mùi thơm vi diệu tràn khắp, khiến cho người nghe mau chống diệt trừ tâm tham, sân, si, vô lượng, vô biên thân bệnh cũng được lành. Ai được nghe hương của cây bồ đệ này thì xa lịa suy nghĩ về thanh văn, độc giác, chẳng chắn chứng đắc quả vị vô thường chánh đẳng bồ đệ. Không nên chủ ý nghĩ như vậy, nguyện cho tôi sẽ được cõi Phật trang nghiêm thanh tịnh. Cõi ấy thật trong sạch, không có các thứ cấu ế. Vì sao? Vì còn dùng có sở đắc làm phương tiện. Lại nữa, Kiều Thi Ca. Cũng không chấp trước tên gọi, âm thanh nhãn xuất cho đến ý xuất. Cũng không chấp trước tên gọi, âm thanh các thọ do nhãn xuất làm duyên sanh ra, cho đến các thọ do ý xuất làm duyên sanh ra. Cũng không chấp trước tên gọi, âm thanh địa giới cho đến thức giới. Cũng không chấp trước tên gọi, âm thanh nhân duyên cho đến tăng thượng duyên. Cũng không chấp trước tên gọi, âm thanh vô minh cho đến lão tử. Cũng không chấp trước tên gọi, âm thanh bố thí ba la mật đa cho đến bác ngã ba la mật đa. Cũng không chấp trước tên gọi, âm thanh Pháp nội không cho đến Pháp vô tính tự tính không. Cũng không chấp trước tên gọi, âm thanh chân như cho đến cảnh giới bất tương nghi. Cũng không chấp trước tên gọi, âm thanh cảnh giới đoạn cho đến cảnh giới vô vi. Cũng không chấp trước tên gọi, âm thanh thánh đế khổ, tập, diệt, đạo. Cũng không chấp trước tên gọi, âm thanh bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo. Cũng không chấp trước tên gọi, âm thanh bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Cũng không chấp trước tên gọi, âm thanh tám giải thoát, chính định thứ đệ. Cũng không chấp trước tên gọi, âm thanh Pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện. Cũng không chấp trước tên gọi, âm thanh tỉnh quán địa cho đến như lai địa. Cũng không chấp trước tên gọi, âm thanh cực khỉ địa cho đến Pháp vân địa. Cũng không chấp trước tên gọi, âm thanh năm loại mắt, sáu phép thần thông. Cũng không chấp trước tên gọi, âm thanh mười lực như lai cho đến mười tám Pháp Phật bất cộng. Cũng không chấp trước tên gọi, âm thanh ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp. Cũng không chấp trước tên gọi, âm thanh Pháp không quên mất, tánh luôn luôn xã. Cũng không chấp trước tên gọi, âm thanh tất cả Pháp môn Đà-la-ni, Pháp môn Tam-ma-địa. Cũng không chấp trước tên gọi, âm thanh trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Cũng không chấp trước tên gọi, âm thanh thanh văn, độc giác, đại thừa. Cũng không chấp trước tên gọi, âm thanh giữ lưu hướng, giữ lưu quả cho đến Bồ-Tát, như lai. Vì sao? Vì còn dùng có sở đắc làm phương tiện. Vì sao? Vì tất cả như lai ứng chánh đẳng giác khi chính đắc quả vị vô thường chánh đẳng Bồ-đề, hiểu rõ tất cả Pháp hoàn toàn vô sở hữu, tên gọi, âm thanh đều bất khả đắc. Khi các đại Bồ-Tát an trụ ở bậc bất thối chuyển, cũng thấy các Pháp hoàn toàn vô sở hữu, tên gọi, âm thanh đều bất khả đắc. Đây là các đại Bồ-Tát đối với bác nhã Balamudda sâu xa, chỗ trụ như vậy mà không có trụ tướng. Các đại Bồ-Tát đối với bác nhã Balamudda sâu xa, tùy theo thật tướng nên trụ mà không nên trụ, vì dùng vô sở đắc làm phương tiện, phải nên học như vậy. Khi ấy, xá lợi tử nghĩ như vầy, nếu đại Bồ-Tát khi hành bác nhã Balamudda sâu xa, đối với tất cả Pháp đều không nên trụ, thì tại sao nên trụ bác nhã Balamudda sâu xa? Cụ Thọ Thiện Hiện biết tâm niệm của xá lợi tử liền nói. Ý tôn giả thế nào? Tâm của Chiêu Như Lai thì trụ ở đâu? Xá lợi tử đáp. Tâm của Chiêu Như Lai hoàn toàn vô sở trụ. Vì sao? Vì tâm của Chiêu Phật không trụ Sát Quẩn cho đến Thức Quẩn. Không trụ Nhãn Sứ cho đến Ý Sứ. Không trụ Sát Sứ cho đến Pháp Sứ. Không trụ Nhãn Giới cho đến Ý Giới. Không trụ Sát Giới cho đến Pháp Giới. Không trụ Nhãn Thức Giới cho đến Ý Thức Giới. Không trụ Nhãn Xuất cho đến Ý Xuất. Không trụ các Thọ do Nhãn Xuất làm duyên sanh ra, cho đến các Thọ do Ý Xuất làm duyên sanh ra. Không trụ Địa Giới cho đến Thức Giới. Không trụ Nhân Duyên cho đến Tăng Thượng Duyên. Không trụ Vô Minh cho đến Lão Tử. Không trụ Cảnh Giới Hữu Vi, Cảnh Giới Vô Vi. Không trụ Bố Thí Ba La Mật Đa cho đến Bác Nhã Ba La Mật Đa. Không trụ Pháp Nội không cho đến Pháp Vô Tính Tự Tính Không. Không trụ Chân Như cho đến Cảnh Giới Bất Tương Nghì. Không trụ Cảnh Giới Đoạn cho đến Cảnh Giới Vô Vi. Không trụ Thánh Đế Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Không trụ 4 Niệm Trụ cho đến 8 Chi Thánh Đạo. Không trụ 4 Tịnh Lự, 4 Vô Lượng, 4 Định Vô Sắc. Không trụ 8 Giải Thoát, 9 Định Thứ Đệ. Không trụ Pháp Môn Giải Thoát không, Vô Tướng, Vô Nguyện. Không trụ Tịnh Quán Địa cho đến Như Lai Địa. Không trụ Cực Khỉ Địa cho đến Pháp Vân Địa. Không trụ 5 Loại Mắt, 6 Phép Thần Thông. Không trụ 10 Lực Như Lai cho đến 18 Pháp Phật Bất Cộng. Không trụ 32 Tướng, 80 Vẽ Đẹp. Không trụ Pháp Không Quên Mất, Đánh Luôn Luôn Xã. Không trụ tất cả Pháp Môn Đà La Ni, Pháp Môn Tam Ma Địa. Không trụ Trí Nhất Thiết, Trí Đạo Tướng, Trí Nhất Thiết Tướng. Vì sao? Vì tất cả Pháp Bất Khả Đắc. Như vậy, Thiện Hiện, Tầm Như Lai đối với tất cả Pháp hoàn toàn vô sở trụ, cũng chẳng phải không trụ. Lúc đó, cụ Thọ Thiện Hiện nói với xá lợi tử Các Đại Bồ Tát khi hành bát nhã Ba La Mật Đa sâu xa cũng đều như vậy. Tuy trụ bát nhã Ba La Mật Đa mà đồng với Như Lai, đối với tất cả Pháp tâm vô sở trụ, cũng chẳng phải không trụ. Vì sao? Vì các Đại Bồ Tát khi hành bát nhã Ba La Mật Đa sâu xa, tuy trụ bát nhã Ba La Mật Đa nhưng đối với sát quẩn chẳng phải trụ, chẳng phải không trụ, đối thọ, tưởng, hành, thức quẩn cũng chẳng trụ, chẳng phải không trụ. Như vậy cho đến đối với trí nhất thiết chẳng trụ, chẳng phải không trụ, đối với trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng cũng chẳng trụ, chẳng phải không trụ. Vì sao? Xá lợi tử Vì sát v. v. Pháp không hai tướng Xá lợi tử Các Đại Bồ Tát đối với bát nhã Ba La Mật Đa sâu xa, tùy theo tướng chẳng phải trụ, chẳng phải không trụ, dùng vô sở đắc làm phương tiện, nên học như vậy. Bây giờ, trong hồi chúng có các thiên tử suy nghĩ, lời lễ câu chú của các dược xoa v. v. nhiều loại khác nhau, tuy ẩn mật nhưng chúng ta còn có thể hiểu rõ được. Tôn giả thiện hiền thuyết bát nhã Ba La Mật Đa sâu xa, mặc dù dùng nhiều lời lễ chỉ bày rõ ràng, nhưng sao chúng ta lại không hiểu nổi? Cụ thọ thiện hiền biết được tâm niệm của các thiên tử liền bảo. Các vị thiên tử! Những gì tôi đã nói các vị không hiểu nổi sao? Các thiên tử Đát! Đúng vậy! Đúng vậy! Câu cú và ý nghĩa của bát nhã Ba La Mật Đa sâu xa mà tôn giả đã nói, đối với chúng tôi thật là khó hiểu. Cụ thọ thiện hiền nói Tôi thường đối với bát nhã Ba La Mật Đa sâu xa này, trong nghĩa tương ưng không nói một chữ, các vị cũng không nghe thì lấy gì mà hiểu. Vì sao? Các thiên tử! Vì trong nghĩa tương ưng với bát nhã Ba La Mật Đa sâu xa thì văn tự ngôn ngữ hoàn toàn xa liệt. Bởi vì trong ấy người nói, người nghe và người hiểu đều bất khả đắc. Tất cả như la ứng chánh đặng giác đã chứng quả vị vô thường chánh đặng bồ đề sâu xa vi diệu, cũng lại như vậy. Thiên tử nên biết, như Phật hóa làm một hóa thân Phật. Hóa thân Phật này hóa làm bốn chúng, đều đến hồi mà thuyết phát. Ý các vị thế nào? Trong đây thật có người thuyết, người nghe, người hiểu không? Các thiên tử Đát! Bạch Đại Đức! Không có! Thiền Hiền Bảo! Đúng vậy! Thiên tử! Tất cả Pháp đều như huyển hóa. Này trong nghĩa tương ưng với bác nhã Ba La Mật Đa sâu xa này, người thuyết, người nghe và người hiểu đều bất khả đắc. Thiên tử nên biết, cũng như mộng thấy Phật thuyết Pháp cho chúng. Ý các vị thế nào? Trong đây thật có người thuyết, người nghe, người hiểu không? Các thiên tử Đát! Bạch Đại Đức! Không có! Thiền Hiền Bảo! Đúng vậy! Thiên tử! Tất cả Pháp đều như mộng. Này trong nghĩa tương ưng với bác nhã Ba La Mật Đa sâu xa này, người thuyết, người nghe và người hiểu đều bất khả đắc. Thiên tử nên biết, giống như có hai người ở trong một hang núi, mỗi người xoay về một hướng, cùng một lúc thức tiếng ca ngợi Phật, Pháp, Tăng. Ý các vị thế nào? Hai tiếng vang này có thể nghe lẫn nhau? Có thể hiểu lẫn nhau không? Các thiên tử Đát! Bạch Đại Đức! Không! Thiền Hiền Bảo! Đúng vậy! Thiên tử! Tất cả Pháp đều như tiếng vang. Này trong nghĩa tương ưng với bác nhã Ba La Mật Đa sâu xa này, người thuyết, người nghe và người hiểu đều bất khả đắc. Thiên tử nên biết, ví như nhà ảo thuật, hoặc đệ tử của vị ấy ở ngã tư đường, hóa làm bốn chúng và một như lai thuyết Pháp cho chúng nghe. Ý các vị thế nào? Trong đây có thật người thuyết, người nghe, người hiểu không? Các thiên tử Đát! Bạch Đại Đức! Không! Thiền Hiền Bảo! Đúng vậy! Thiên tử! Tất cả Pháp đều như nhà ảo thuật. Này trong nghĩa tương ưng với bác nhã Ba La Mật Đa sâu xa này, người thuyết, người nghe và người hiểu đều bất khả đắc. Thiên tử nên biết, do nhân duyên này, đối với trong nghĩa tương ưng với bác nhã Ba La Mật Đa sâu xa tôi thường không thuyết một chữ, các vị cũng không nghe, thì lấy gì mà hiểu được? Khi ấy, các thiên tử lại nghĩ như vầy, trong nghĩa thậm thâm của bác nhã Ba La Mật Đa này, Đại Đức Thiền Hiền tuy dùng nhiều phương tiện nói rõ, muốn chúng ta dễ hiểu, nhưng nghĩa lý kia sâu xa lại càng sâu xa hơn, vi tế lại càng vi tế hơn, khó có thể lượng được. Cụ Thọ Thiền Hiền biết tâm niệm của các vị ấy liền bảo. Thiên tử nên biết, sát quẩn chẳng phải sâu xa, chẳng phải vi tế, họ, tưởng, hành, thước quẩn cũng chẳng phải sâu xa, chẳng phải vi tế. Vì sao? Các thiên tử, vì tự tánh sát quẩn cho đến tự tánh thước quẩn đều chẳng phải sâu xa, chẳng phải vi tế. Như vậy, cho đến trí nhất thiết chẳng phải sâu xa, chẳng phải vi tế, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng cũng chẳng phải sâu xa, chẳng phải vi tế. Vì sao? Các thiên tử, vì tự tánh trí nhất thiết, tự tánh trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng đều chẳng phải sâu xa, chẳng phải vi tế. Các thiên tử lại nghĩ, trong Pháp được thuyết Đại Đức Thiền Hiền không trình bày sát quẩn, cũng không trình bày thọ, tướng, hành, thước quẩn. Vì sao? Vì tánh sát quẩn V, V đều không thể thuyết. Như vậy cho đến không trình bày trí nhất thiết, cũng không trình bày trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Vì sao? Vì tánh trí nhất thiết V, V đều không thể thuyết. Trong lúc thuyết Pháp, Đại Đức Thiền Hiền không trình bày dự lưu hướng, dự lưu quả, nhất lai hướng, nhất lai quả, bất hoàng hướng, bất hoàng quả, à la háng hướng, à la háng quả, độc giác hướng, độc giác quả, và tất cả đại Bồ Tát hành quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đề của Chiêu Phật. Vì sao? Vì tánh dự lưu hướng V, V đều không thể thuyết. Trong lúc thuyết Pháp, Đại Đức Thiền Hiền cũng không trình bày ngôn ngữ, văn tử. Vì sao? Vì tánh của ngôn ngữ, văn tử đều không thể thuyết. Cụ Thọ Thiền Hiền biết các thiên tử đang nghĩ về Pháp, liền bảo họ. Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như ý nghĩ của các vị, sát quẩn cho đến quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đề, văn tử ngôn ngữ đều không thể thuyết. Cho nên đối với trong nghĩa tương ưng với bác nhã Ba-la-mật-đa sâu xa này, không có người thuyết, không có người nghe, cũng không có người hiểu. Do đó, đối với các Pháp các vị phải tùy theo lời nói mà tu hành nhẫn nhục vững chắc. Thiên tử nên biết, các vị muốn chứng, muốn trụ quả dự lưu, nhất lai, vất hoàng, à-la-hãng, độc giác Bồ Đề, quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đề của chiêu Phật, cần phải nương vào Pháp nhẫn này mới có thể chứng đắc và an trụ. Như vậy, thiên tử, các đại Bồ Tát từ lúc mới phát tâm cho đến khi đạt được cứu cánh trốt tráo, nên trụ bác nhã Ba-la-mật-đa sâu xa không nói, không nghe, không hiểu này, luôn luôn xiên năng tu học, không nên tạm lị bỏ. Các thiên tử lại nghĩ, nay Đại Đức thiện hiện muốn vì hữu tình nào mà thuyết những Pháp nào? Cụ thọ thiện hiện biết tâm niệm của các thiên tử, liền nói. Thiên tử nên biết, nay tôi muốn vì hữu tình như huyển, như hóa, như mộng mà tuyên thuyết Pháp như huyển, như hóa, như mộng. Vì sao? Vì như vậy thì người nghe đối với việc thuyết Pháp cũng không nghe, không hiểu, không chứng. Các thiên tử hỏi lại. Người thuyết, nghe và Pháp được thuyết đều thấy như huyển, như hóa, như mộng sao? Thiện hiện đáp. Đúng vậy. Đúng vậy. Đúng như lời các vị đã nói. Hữu tình như huyển, vì người như huyển nên Pháp thuyết cũng như huyển. Hữu tình như hóa, vì người như hóa nên Pháp thuyết cũng như hóa. Hữu tình như mộng, vì người như mộng nên Pháp thuyết cũng như mộng. Thiên tử nên biết, ngã cho đến người thấy đều thấy như huyển, như hóa, như mộng. Sắc quẩn cho đến thức quẩn cũng thấy như huyển, như hóa, như mộng. Cho đến dự lưu, nhất lai, bất hoàng, à la hán, độc giác bồ đệ, quả vị vô thường chánh đẳng bồ đệ của chư Phật cũng thấy như huyển, như hóa, như mộng. Các thiên tử hỏi thiện hiện. Bạch Đại Đức Này Đại Đức chỉ nói ngã cho đến bồ đệ thấy như huyển, như hóa, như mộng. Vậy Đại Đức cũng nói thấy Niết Bàn như huyển, như hóa, như mộng sao? Thiện hiện đáp Này tôi chỉ nói ngã cho đến bồ đệ thấy như huyển, như hóa, như mộng. Cũng nói Niết Bàn thấy như huyển, như hóa, như mộng. Thiên tử nên biết, giả sử có Pháp cao hơn Niết Bàn, tôi cũng nói là thấy như huyển, như hóa, như mộng. Vì sao? Các thiên tử Vì việc huyển, hóa, mộng cùng với tất cả Pháp cho đến Niết Bàn, tất cả đều không hai, không hai phần. Bây giờ, các Đại Thanh Văn, Cụ Thọ Xá Lợi Tử, Đại Mục Kiền Liên, Chấp Đại Tạng, Mãng Từ Tử, Đại Ca Đa Diễn Na, Đại Ca Diếp Ba V, V, và vô lượng trăm ngàn Đại Bồ Tát cùng hỏi Cụ Thọ Thiên hiện. Bác Nhã Ba Lạ Mật Đa mà tôn giả đã thuyết thầm thâm như vậy, khó thấy, khó hiểu, tịch tỉnh, vi diệu, chẳng phải chỗ suy nghĩ, vượt lên cảnh giới suy nghĩ, tối thắng nhất thì ai có thể tin hiểu, lãnh thọ được. Khi ấy, khánh hỷ bạch với các Đại Thanh Văn và các Đại Bồ Tát. Có các Đại Bồ Tát bất thối chuyển đối với Bác Nhã Ba Lạ Mật Đa này, có thể lãnh thọ và tin hiểu sâu xa. Lại có vô lượng A-La-Hán đã thấy Thánh Đế, đối với các Pháp sâu xa có thể đạt tầng nguồn gốc, sở nguyện đã viên mãn, cắt lậu hoặc chấm dứt, đối với Bác Nhã Ba Lạ Mật Đa này có thể tin hiểu, lãnh thọ. Lại có vô lượng các thiện nam, thiện nữ nhân v.v. ở trong thời quá khứ vô lượng, vô số trăm ngàn mung ức Phật, thân trận, cúng dường, phát thể nguyện động lớn, trồng các trăng lành, trí tuệ thông minh, được sự giúp đỡ của bạn lành, đối với Bác Nhã Ba Lạ Mật Đa cũng có thể tin hiểu, lãnh thọ. Vì sao? Vì những vị như vậy đối với Pháp, phi Pháp đều không phân biệt. Nghĩa là không dùng không, bất không phân biệt với sát cho đến thức, cũng không dùng sát cho đến thức phân biệt không, bất không. Không dùng hữu tướng, vô tướng phân biệt sát cho đến thức, cũng không dùng sát cho đến thức phân biệt hữu tướng, vô tướng. Không dùng hữu nguyện, vô nguyện phân biệt sát cho đến thức, cũng không dùng sát cho đến thức phân biệt hữu nguyện, vô nguyện. Không dùng tịch tỉnh, bất tịch tỉnh phân biệt sát cho đến thức, cũng không dùng sát cho đến thức phân biệt tịch tỉnh, bất tịch tỉnh. Không dùng viễn ly, bất viễn ly phân biệt sát cho đến thức, cũng không dùng sát cho đến thức phân biệt viễn ly, bất viễn ly. Không dùng xanh, bất xanh phân biệt sát cho đến thức, cũng không dùng sát cho đến thức phân biệt xanh, bất xanh. Không dùng diệt, bất diệt phân biệt sát cho đến thức, cũng không dùng sát cho đến thức phân biệt diệt, bất diệt. Như vậy cho đến không dùng không, bất không phân biệt cảnh giới hữu vi, vô vi, cũng không dùng cảnh giới hữu vi, vô vi phân biệt không, bất không. Không dùng hữu tướng, vô tướng phân biệt cảnh giới hữu vi, vô vi, cũng không dùng cảnh giới hữu vi, vô vi phân biệt hữu tướng, vô tướng. Không dùng hữu nguyện, vô nguyện phân biệt cảnh giới hữu vi, vô vi, cũng không dùng cảnh giới hữu vi, vô vi phân biệt hữu nguyện, vô nguyện. Không dùng tịch tỉnh, bất tịch tỉnh phân biệt cảnh giới hữu vi, vô vi, cũng không dùng cảnh giới hữu vi, vô vi phân biệt tịch tỉnh, bất tịch tỉnh. Không dùng viễn ly, bất viễn ly phân biệt cảnh giới hữu vi, vô vi, cũng không dùng cảnh giới hữu vi, vô vi phân biệt viễn ly, bất viễn ly. Không dùng sanh, bất sanh phân biệt cảnh giới hữu vi, vô vi, cũng không dùng cảnh giới hữu vi, vô vi phân biệt sanh, bất sanh. Không dùng diệt, bất diệt phân biệt cảnh giới hữu vi, vô vi, cũng không dùng cảnh giới hữu vi, vô vi phân biệt diệt, bất diệt. Do nhân duyên này nên những vị như vậy đối với Bác Nhã-Ba-La-Mật-Đa đều có thể tin hiểu và thọ trì. Khi ấy, Cụ Thọ Thiện hiện bảo các thiên tử Bác Nhã-Ba-La-Mật-Đa như vậy thật là thầm thâm, khó thấy, khó hiểu, tịch tỉnh, vi diệu. Chẳng phải chỗ suy nghĩ, vượt lên cảnh giới suy nghĩ, tối thắng đệ nhất. Trong đó thật không có người có thể tin hiểu, lãnh thọ. Vì sao? Vì trong đó không có Pháp có thể hiển thị. Đã thật không có Pháp có thể hiển thị nên người tin hiểu, thọ trì cũng bất khả đắc. Bây giờ, xá lời tử hỏi Thiện hiện. Ơu phải trong giáo Pháp sâu xa của Bác Nhã-Ba-La-Mật-Đa, cho đến Pháp tương tương với Tam Thừa là Pháp Thanh Văn Thừa, Pháp Độc Giác Thừa, Pháp Vô Thượng Thừa cho đến Đạo Bồ Tát nhiếp thọ các đại Bồ Tát, từ lúc Phát Tâm ban đầu lần lượt đến Phát Tâm lần thứ 10, gọi là Bố Thí-Ba-La-Mật-Đa cho đến Bác Nhã-Ba-La-Mật-Đa. An trụ Pháp nội không cho đến Pháp vô tính tự tính không? An trụ chân như cho đến cảnh giới bất tương nghi? An trụ cảnh giới đoạn cho đến cảnh giới vô vi? An trụ thánh đế khổ, tập, diệt, đạo? Hoặc 4 niệm trụ cho đến 8 chi thánh đạo? Hoặc 4 tịnh lự, 4 vô lượng, 4 định vô sắc? Hoặc 8 giải thoát, 9 định thứ đệ? Hoặc Pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện? Hoặc cực khỉ địa cho đến Pháp vân địa? Hoặc 5 loại mắt, 6 phép thần thông? Hoặc 10 lực như lai cho đến 18 Pháp Phật bất trọng? Hoặc Pháp không quên mất, tảnh luôn luôn xả? Hoặc tất cả Pháp môn Đà-la-Ni, Pháp môn Tam-ma-địa? Hoặc trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, cho đến việc nhít thọ thần thông thù thắng của các Đại Bồ-Tát? Đó là đối với bác nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, Đại Bồ-Tát phải siêng năng tu hành, nên tùy theo chỗ sanh mà thường thọ hóa sanh, không thối chuyển thần thông, có thể tự tại du hí, xéo thông đạt vô lượng Pháp môn. Từ cõi Phật này đến cõi Phật khác, thường cúng dường, cung chính, tôn trọng, ngợi khen Chiêu Phật thế tôn, tùy theo sở nguyện mà gieo trồng các cội công đức, được thọ trì chánh Pháp của Chiêu Phật, cho đến thường nhớ nghĩ quả vị vô thường chánh đẳng Bồ-Đệ, luôn ở thắng định xa lì tâm rối loạn. Do nhân duyên này mà đắc Biện Tài vô ngại, Biện Tài không đoạn tận, Biện Tài ít sai lầm, Biện Tài thích ứng, Biện Tài nhanh nhẹn, Biện Tài diễn thuyết nghĩa vị phong phú, Biện Tài khéo léo đầy nhất thế gian. Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời tôn giả nói. Trong giáo Pháp sâu xa của bác nhã Palamarda này, dùng vô sở đắc làm phương tiện, cho đến Pháp tương ưng ba thừa, cho đến việc nhiếp thọ thần thông thù thắng của Bồ-Tát, cho đến chứng đắc tất cả Biện Tài khéo léo đầy nhất thế gian. Xá lợi tử lại hỏi thiện hiện. Trong giáo Pháp sâu xa của bác nhã Palamarda như thế, những gì đã thuyết đều dùng vô sở đắc làm phương tiện. Vậy thì Pháp nào ở đây dùng vô sở đắc làm phương tiện? Thiện hiện đắc. Ở đây, ngã cho đến người thấy dùng vô sở đắc làm phương tiện. Ở đây, sắc cho đến thức dùng vô sở đắc làm phương tiện. Ở đây, nhãn xứ cho đến ý xứ dùng vô sở đắc làm phương tiện. Ở đây, sắc xứ cho đến Pháp xứ dùng vô sở đắc làm phương tiện. Ở đây, nhãn giới cho đến ý giới dùng vô sở đắc làm phương tiện. Ở đây, sắc giới cho đến Pháp giới dùng vô sở đắc làm phương tiện. Ở đây, nhãn thức giới cho đến ý thức giới dùng vô sở đắc làm phương tiện. Ở đây, nhãn xúc cho đến ý xúc dùng vô sở đắc làm phương tiện. Ở đây, các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra dùng vô sở đắc làm phương tiện. Ở đây, đi giới cho đến thức giới dùng vô sở đắc làm phương tiện. Ở đây, nhân duyên cho đến tăng thường duyên dùng vô sở đắc làm phương tiện. Ở đây, vô minh cho đến lão tử dùng vô sở đắc làm phương tiện. Ở đây, bố thí Palamerta cho đến bác nhã Palamerta dùng vô sở đắc làm phương tiện. Ở đây, pháp nội không cho đến pháp vô tính tự tính không dùng vô sở đắc làm phương tiện. Ở đây, chân như cho đến cảnh giới bất tương nghi dùng vô sở đắc làm phương tiện. Ở đây, cảnh giới đoạn cho đến cảnh giới vô vi dùng vô sở đắc làm phương tiện. Ở đây, thánh đế khổ, tập, diệt, đạo dùng vô sở đắc làm phương tiện. Ở đây, bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo dùng vô sở đắc làm phương tiện. Ở đây, bốn tỉnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sách dùng vô sở đắc làm phương tiện. Ở đây, tám giải thoát, chính định thứ để dùng vô sở đắc làm phương tiện. Ở đây, pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện dùng vô sở đắc làm phương tiện. Ở đây, tỉnh quán địa cho đến như lai địa dùng vô sở đắc làm phương tiện. Ở đây, cực khỉ địa cho đến pháp vân địa dùng vô sở đắc làm phương tiện. Ở đây, năm loại mắt, sáu phép thần thông dùng vô sở đắc làm phương tiện. Ở đây, mười lực như lai cho đến mười tám pháp vật bất cộng dùng vô sở đắc làm phương tiện. Ở đây, ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp của bậc đại sĩ dùng vô sở đắc làm phương tiện. Ở đây, pháp không quên mất, tánh luôn luôn sả dùng vô sở đắc làm phương tiện. Ở đây, tất cả pháp môn Đà-La-Ni, pháp môn Tam-Ma địa dùng vô sở đắc làm phương tiện. Ở đây, trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng dùng vô sở đắc làm phương tiện. Ở đây, dự lưu hướng, dự lưu quả cho đến đại Bồ-Tát hành quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề của chiêu vật dùng vô sở đắc làm phương tiện. Xá lợi tử hỏi thiện hiện Do nhân duyên gì mà trông giáo pháp thầm thâm của bác nhã Ba-La-Mật-Đa này cho đến pháp tương ưng với ba thừa dùng vô sở đắc làm phương tiện? Do nhân duyên gì mà trông giáo pháp thầm thâm của bác nhã Ba-La-Mật-Đa này cho đến đạo Bồ-Tát nhiếp thọ các đại Bồ-Tát từ lúc mới phát tâm cho đến phát tâm lần thứ 10 dùng vô sở đắc làm phương tiện? Do nhân duyên gì mà trông giáo pháp thầm thâm của bác nhã Ba-La-Mật-Đa này cho đến việc nhiếp thọ thần thông thù thắng của các đại Bồ-Tát cho đến chứng đắc tất cả biện tài khéo léo đẩy nhất thế gian? Thiện hiện đắc Xá lợi tử Do pháp nội không cho đến pháp vô tính tự tính không, nên đối với trông giáo pháp sâu xa của bác nhã Ba-La-Mật-Đa này cho đến pháp tương ưng với ba thừa đều dùng vô sở đắc làm phương tiện? Xá lợi tử Do pháp nội không cho đến pháp vô tính tự tính không, nên đối với trông giáo pháp sâu xa của bác nhã Ba-La-Mật-Đa này cho đến đạo Bồ-Tát nhiếp thọ các đại Bồ-Tát từ lúc mới phát tâm cho đến phát tâm lần thứ 10 dùng vô sở đắc làm phương tiện? Xá lợi tử Do pháp nội không cho đến pháp vô tính tự tính không, nên đối với trông giáo pháp sâu xa của bác nhã Ba-La-Mật-Đa này cho đến các việc nhiếp thọ thần thông thù thắng của các đại Bồ-Tát cho đến tất cả biện tài khéo đệ nhất thế gian đều dùng vô sở đắc làm phương tiện? Vì sao? Vì tất cả pháp đều không, xét đến tận cùng rốt ráo cứu cánh cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì tất cả pháp đều không, xét đến tận cùng rốt ráo cứu cánh cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì tất cả pháp đều không, xét đến tận cùng rốt ráo cứu cánh cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì tất cả pháp đều không, xét đến tận cùng rốt ráo cứu cánh cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì tất cả pháp đều không, xét đến tận cùng rốt ráo cứu cánh cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì tất cả pháp đều không, xét đến tận cùng rốt ráo cứu cánh cũng bất khả đắc. Vì sao?

Listen Next

Other Creators