black friday sale

Big christmas sale

Premium Access 35% OFF

Home Page
cover of kinhdaibatnha (515)
kinhdaibatnha (515)

kinhdaibatnha (515)

Phuc Tien

0 followers

00:00-46:00

Nothing to say, yet

Podcastspeech synthesizerspeechnarrationmonologuemale speech

Audio hosting, extended storage and much more

AI Mastering

Transcription

Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đà Đà tập 21 Quyển 515 20. Phẩm Tướng Bất Thối 02 Lại nữa, thiện hiện Giả sử có ác ma đi đến chỗ của tất cả Đại Bồ Tát Bất Thối chuyển muốn làm cho họ nhàm chán quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đề, nói như vậy Trí nhất thiết trí cùng với hư không bằng nhau, vô tánh làm tánh, tự tướng vốn không Các Pháp cũng vậy, ngang bằng với hư không, vô tánh làm tánh Trong tự tướng không ấy, không có Pháp nào có thể gọi là năng chính, không có một Pháp nào có thể gọi là sở chính, chỗ chính, thời chính và do đây mà chính cũng bất khả đắc Tất cả Pháp đã ngang bằng với hư không, vô tánh làm tánh, tự tướng vốn không, vì sao các ông phải lúng chịu khổ cực để cầu chính đắc quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đề Trước đây ông đã nghe, các chúng Bồ Tát nên cầu quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đề, đó đều là ma thuyết, chẳng phải lời dạy chân chánh của Phật Các ông nên bỏ tâm cầu quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đề, đừng vì lợi lạc cho tất cả hữu tình, tự chuốt lấy khổ cực suốt thời gian dài Tuy hành các loại khổ hành khó làm để mong cầu Bồ Đề nhưng rốt cuộc không thể được Khi đại Bồ Tát nghe nói những lời căng ngăn như vậy, luôn xem xét kỹ việc của ác ma này muốn làm thất bại tâm đại Bồ Đề của ta, ta chẳng nên tin nhận lời ấy Tuy là tất cả Pháp ngang bằng với hư không, vô tánh làm tánh, tự tướng vốn không nhưng các hữu tình trải qua đêm dài sanh tử, không biết, không thấy, buồn lung điên đảo, gây ra các nghiệp, chuốt lấy khổ sanh tử Ta phải mặc áo giáp công đức tánh, tướng như hư không, mau chứng quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đề, như Pháp đã thuyết, vì các hữu tình làm cho họ được giải thoát các khổ sanh tử, đắc quả dự lưu, hoặc quả nhất lai, hoặc quả bất hoàng, hoặc quả A-la-hán, hoặc độc giác Bồ Đề, hoặc chứng quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đề, có thể làm lợi ích ăn lạc cho tất cả hữu tình đến tận vị lai Đại Bồ Tát này từ khi mới phát tâm đã nghe Pháp này nên tâm vững vàng chẳng giao động, chẳng thối chuyển. Dựa vào tâm vững vàng chẳng giao động, chẳng thối chuyển này, thường chân chánh tu hành sáu Pháp Ba-la-mật-đa. Á nhập vào ngôi vị chánh tánh ly xanh của Bồ Tát, lại chân chánh tu hành sáu Pháp Ba-la-mật-đa, dần dần viên mãn, tháo gỡ hết trói buộc. Do đây được vào bật bớt thối chuyển. Vì vậy, ác ma dù đã thiết lập nhiều loại phương tiện làm thất bại, nhưng không thể làm thối lui tâm Đại Bồ Đề mà Bồ Tát đã phát. Nếu Đại Bồ Tát thành tựu các hành động tướng trạng như thế, thì biết đó là Đại Bồ Tát bất thối chuyển. Cụ Thọ Thiện Hiện Liên Bạch Phật Bạch Thế Tôn Đại Bồ Tát này vì không thối chuyển nên gọi là bất thối chuyển, hay vì thối chuyển mà gọi là bất thối chuyển? Phật Bảo Hiện Hiện Đại Bồ Tát này vì không thối chuyển nên gọi là bất thối chuyển, cũng vì thối chuyển nên gọi là bất thối chuyển? Thiện Hiện Lại Bạch Phật Bạch Thế Tôn Vì sao Đại Bồ Tát này vì không thối chuyển nên gọi là bất thối chuyển? Vì sao cũng vì thối chuyển nên gọi là bất thối chuyển? Phật Bảo Hiện Hiện Đại Bồ Tát này vượt khỏi bật thanh văn và độc giác, không thối lui vào trong hai bật ấy. Do đó nên nói vì không thối chuyển nên gọi là bất thối chuyển. Đại Bồ Tát này xa lìa bật thanh văn và độc giác. Đối với hai bật ấy nhất quyết lui bỏ. Do đây nên nói vì thối chuyển nên gọi là bất thối chuyển. Vì vậy, nên Bồ Tát này được hai cách gọi. Chẳng phải như các ngôi khác chỉ gọi là thối chuyển. Nếu Đại Bồ Tát thành tựu các hành động tướng trạng như thế, thì chắc chắn đắc quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đề. Các ác ma không thể làm thất bại được. Lại nữa, Thiện Hiện Tất cả Đại Bồ Tát bất thối chuyển muốn vào Sơ Thiền cho đến Đệ Tứ Thiền thì có thể vào tùy ý. Muốn vào từ Vô Lượng cho đến Xã Vô Lượng có thể vào tùy ý. Muốn vào Định Không Vô Biên Sứ cho đến Định Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Sứ có thể vào tùy ý. Muốn vào Bốn Niệm Trụ cho đến Tám Chi Thánh Đạo có thể vào tùy ý. Muốn vào Sơ Giải Thoát cho đến Diệt Tưởng Thọ Giải Thoát có thể vào tùy ý. Muốn vào Sơ Thắng Sứ cho đến Thắng Sứ Thứ Tám có thể vào tùy ý. Muốn vào Định Sơ Tịnh Lự cho đến Định Diệt Tưởng Thọ có thể vào tùy ý. Muốn vào Sơ Biến Sứ cho đến Biến Sứ Thứ Mười có thể vào tùy ý. Muốn vào Pháp Môn Giải Thoát Không, Vô Tướng, Vô Nguyện có thể vào tùy ý. Muốn phát khởi Năm Thần Thông có thể phát khởi tùy ý. Thiện Hiện nên biết, Đại Bồ Tát này tuy vào Bốn Tịnh Lự cho đến phát khởi Năm Thần Thông nhưng chẳng thọ quả báo. Do nhân duyên này nên chẳng theo năng lực tịnh lự, vô lượng, đẳng chí cho đến Diệt Định và các công đức khác mà thọ sanh. Cũng chẳng lấy quả Dự Lưu, hoặc quả Nhất Lai, hoặc quả Bất Hoàng, hoặc quả A-La-Hán, hoặc độc giác Bồ Đề. Vì muốn lợi lạc cho các hữu tình nên tùy ý muốn thọ thân chỗ nào đáng thọ thì ý muốn ấy đều được thành tựu ngay, làm việc nên làm xong liền bỏ đi. Nếu Đại Bồ Tát thành tựu hành động tướng trạng như thế thì biết đó là Đại Bồ Tát Bất Thối Chuyển. Lại nữa, Thiện Hiện. Tất cả Đại Bồ Tát Bất Thối Chuyển thành tựu tác ý quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đề, thường chẳng xa lịa tâm Đại Bồ Đề. Chẳng quý sát quẩn cho đến thức quẩn. Chẳng quý nhạn sứ cho đến ý sứ. Chẳng quý sát sứ cho đến pháp sứ. Chẳng quý nhạn giới cho đến ý giới. Chẳng quý sát giới cho đến pháp giới. Chẳng quý nhạn thức giới cho đến ý thức giới. Chẳng quý nhạn xúc cho đến ý xúc. Chẳng quý các thọ do nhạn xúc làm duyên sanh ra, cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra. Chẳng quý địa giới cho đến thức giới. Chẳng quý nhân duyên cho đến tăng thượng duyên. Chẳng quý tất cả duyên tánh, duyên khởi. Chẳng quý các tướng. Chẳng quý vẻ đẹp. Chẳng quý sợ y. Chẳng quý pháp có sắc không sắc. Chẳng quý pháp thấy được và không thấy được. Chẳng quý pháp có đối và không đối. Chẳng quý pháp hữu lậu hay vô lậu. Chẳng quý pháp hữu vi hay vô vi. Chẳng quý pháp thế gian và khức thế gian. Chẳng quý ngã. Chẳng quý hữu tình cho đến chẳng quý người biết, người thấy. Chẳng quý đồ chúng. Chẳng quý quyến thuộc. Chẳng quý địa vị. Chẳng quý cụ cải. Chẳng quý bố thí ba la mật đa cho đến bác nhã ba la mật đa. Chẳng quý pháp nội không cho đến pháp vô tính tự tính không. Chẳng quý chân như cho đến cảnh giới bất tương nghi. Chẳng quý thánh đế khổ, tập, diệt, đạo. Chẳng quý mười thiện nghiệp đạo. Chẳng quý bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Chẳng quý năm thần thông. Chẳng quý bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo. Chẳng quý pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện. Chẳng quý tám giải thoát cho đến mười biến xứng. Chẳng quý tịnh quán địa cho đến như lai địa. Chẳng quý cực khỉ địa cho đến pháp vân địa. Chẳng quý pháp môn Đà-La-Ni, pháp môn Tam-Ma-Địa. Chẳng quý năm loại mắt, sáu phép thần thông. Chẳng quý mười lực như lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Chẳng quý đại tử, đại vi, đại hỷ, đại xã. Chẳng quý pháp không quên mất, tánh luôn luôn xã. Chẳng quý trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Chẳng quý quả dự lưu cho đến độc giác bồ đề. Chẳng quý tất cả hành đại Bồ-Tát. Chẳng quý quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề của chiêu Phật. Chẳng quý sự trang nhiên thanh tình cõi Phật. Chẳng quý sự thành thuộc hữu tình. Chẳng quý thấy nhiều chiêu Phật. Chẳng quý sự vun trọng căng lành. Vì sao? Vì đại Bồ-Tát này hiểu rõ tất cả pháp ngang đồng như hư không, vô tánh làm tánh, tự tướng đều là không. Chẳng thấy có pháp nào có thể quý trọng. Được sanh, bị sanh, thời sanh, chỗ sanh, do đây mà sanh đều không thể nắm bắt. Vì sao? Vì tất cả pháp này cùng với hư không bằng nhau, tánh tướng đều không, vì nghĩa vô sanh vậy. Đại Bồ-Tát này thành tự tác quý quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề, thường chẳng xa lìa tâm đại bồ đề, bốn oai nghi của thân khi ra vào, qua lại, hạ chân cất bước, tâm không tán loạn, oai nghi đi đứng ngồi nằm, tiến dừng, và làm công việc đều trụ chánh niệm. Nếu Đại Bồ-Tát thành tựu các hành động tướng trạng như thế, thì biết là Đại Bồ-Tát bất thối chuyển. Lại nữa, thiện hiện. Vì lợi là các hữu tình, tất cả Đại Bồ-Tát bất thối chuyển hiện ở nhà thế tục, phương tiện thiện xảo dù đang thọ hưởng năm thứ dục lạc nhưng chẳng đắm nhiễm các thứ ấy, chỉ muốn mau cứu giúp các hữu tình. Nghĩa là các hữu tình cần ăn cho ăn, cần uống cho uống, cần áo cho áo, cần xe cho xe, cho đến tất cả vật cần dùng đều mau cấp cho, khiến họ được mãn nguyện. Đại Bồ-Tát này tự hành bố thí cho đến bác nhã Ba-la-mật-đa, cũng khuyên người khác hành bố thí cho đến bác nhã Ba-la-mật-đa, thường khen nợi đúng pháp hành bố thí cho đến bác nhã Ba-la-mật-đa, khoan hỷ táng tháng người tu hành bố thí cho đến bác nhã Ba-la-mật-đa. Đại Bồ-Tát này tuy vẫn ở nhà thế tục, dùng sức thần thông hoặc sức đại nguyện, thông nhất các loại củ cải đầy châu thiện bộ, cho đến ba ngàn đại thiên thế giới, dùng để cúng dương Phật, Pháp, tăng bảo và bố thí cho các loại hữu tình nghèo thiếu. Đại Bồ-Tát này dù đang ở nhà thế tục mà vẫn thường tu phạm hành, quyết không thọ dụng các cảnh dục xinh đẹp. Dù đang quản lý nhiều thứ củ cải, ngọc ngà châu báu mà chẳng đắm nhiễm các thứ ấy. Lại khi hưởng thọ các thứ dục lạc và củ cải châu báu, quyết không ép bức các loại hữu tình khiến họ sầu khổ. Nếu Đại Bồ-Tát thành tựu các hành động tướng trạng như thế, thì biết đó là Đại Bồ-Tát bất thối chuyển. Lại nữa, thiện hiện. Tất cả Đại Bồ-Tát bất thối chuyển được những vương thần, dược xoa cầm chạy kim cương thường theo hai bên thầm bảo vệ những vị ấy, các vị thần thường nghĩ thế này, Đại Bồ-Tát này chẳng bao lâu sẽ chứng quả vị vô thường chánh đẳng Bồ-đệ. Ta nguyện sẽ đi theo âm thầm giúp đỡ cho đến khi đạt quả vị vô thường chánh đẳng Bồ-đệ. Dòng họ thần dược xoa cầm chạy kim cương theo bảo vệ, không lúc nào rời bỏ. Người chẳng phải người V, V, đều không thể làm tổn hại. Chiêu thiên, ma phạm và các loài khác trong thế gian cũng không thể dùng pháp phá hoại tâm quả vị vô thường chánh đẳng Bồ-đệ đã phát. Do nhân duyên này nên các Đại Bồ-Tát cho đến khi đạt quả vị vô thường chánh đẳng Bồ-đệ, thân, ý thư thả, không ưu não. Nằm căng thế gian của Đại Bồ-Tát này thường không khuyết giảm, đó là mắt, tai, mũi, lưỡi và thân căng. Nằm căng suốt thế gian cũng không khuyết giảm, đó là tính, tấn, niềm, định và tuệ căng. Thân thể của Đại Bồ-Tát này đầy đủ tướng hảo trang nghiêm, các công đức nơi tâm mỗi niềm mỗi niềm tăng tiến cho đến khi chứng quả vị vô thường chánh đẳng Bồ-đệ. Nếu Đại Bồ-Tát thành tựu các hành động tướng trạng như thế, thì biết đó là Đại Bồ-Tát bất thối chuyển. Lại nữa, thiện hiện. Tất cả Đại Bồ-Tát bất thối chuyển thường làm bậc thường sĩ không làm kẻ hạ sĩ. Cụ thọ thiện hiện liền bạch Phật. Bạch Thế Tôn. Thế nào là Đại Bồ-Tát thường được làm bậc thường sĩ không làm kẻ hạ sĩ? Phật bảo. Thiện hiện. Tất cả phiền não của Đại Bồ-Tát này chẳng còn hiện tiên, thiện pháp tăng tiến trong từng sát na, cho đến khi chứng quả vị vô thường chánh đẳng Bồ-đệ, bất cứ lúc nào tâm cũng không tán loạn. Vì thế ta nói Đại Bồ-Tát này thường làm thường sĩ không làm hạ sĩ. Nếu Đại Bồ-Tát thành tựu các hành động tướng cạn như thế thì biết đó là Đại Bồ-Tát bất thối chuyển. Lại nữa, thiện hiện. Tất cả Đại Bồ-Tát bất thối chuyển thành tựu tác ý quả vị vô thường chánh đẳng Bồ-đệ, thường chẳng xa lìa tâm Đại Bồ-đệ, thường tu thanh tịnh thân mạng, chẳng làm chú thuật, chữa thuốc, xem bói, các việc tà mạng. Chẳng vì danh lợi mà dùng bù chú của quỷ thân nhập vào trai hay gái để hỏi việc tốt xấu. Cũng chẳng chú nguyện cho trai, gái lớn nhỏ, bàn xanh, loài quỷ VV hiện ra những chuyện hiếm có. Cũng chẳng bói tướng, tuổi thọ dài ngắn, tiền của, chiếc vị của nam nữ và các việc thiện ác. Cũng chẳng dự đoán nóng lạnh, được mùa, mất mùa, lành giữ, tốt xấu làm đảo loạn hữu tình. Cũng chẳng chú nguyện hòa trộn thuốc thang, tả đạo trị chữa bệnh tật, kết hạo quý nhân. Cũng chẳng vì người khác lạnh xứ mạng thông giao, hiện tướng bà con, bạn bè để mong lợi cầu danh. Chẳng được nhỉn tâm xem nhìn nam nữ cười giận và nói năng, muốn gì có việc khác. Cũng chẳng cúng dường, cung kính quỷ thân. Thế nên, ta nói thường làm thượng sĩ không làm kẻ hạ sĩ. Vì sao? Vì Đại Bồ Tát này biết tất cả pháp tánh, tướng đều là không. Trong tánh, tướng không ấy chẳng thấy có tướng. Vì chẳng thấy có tướng, nên xa liệt các thứ tà mạng, chú thuật, y dược, xem tướng mà chỉ cầu quả vị vô thường chánh đẳng bồ đệ, thường làm lợi lạc cho các hữu tình. Nếu Đại Bồ Tát thành tựu các hành động tướng trạng như thế, thì biết đó là Đại Bồ Tát bất thối chuyển. Lại nữa, thiện hiện. Tất cả Đại Bồ Tát bất thối chuyển tuy được thiện xảo các văn chương, kỹ nghệ thế gian nhưng chẳng đắm trước. Vì sao? Vì Đại Bồ Tát này thấu rõ tất cả pháp rốt tráo là không. Trong sự rốt tráo không ấy, bao nhiêu văn chương, kỹ nghệ mà thế gian có được đều bất khả đắc. Và lại, văn chương, kỹ nghệ của thế gian đều là những lời tạp quế, thuộc loại tà mạng. Vì thế, tuy Bồ Tát biết nhưng không làm. Thiện hiện nên biết. Đối với các thơ luận thế tục ngoại đạo, Đại Bồ Tát này biết trành rõ nhưng chẳng ưa đắm. Vì sao? Vì Đại Bồ Tát này thấu rõ tánh, tướng tất cả pháp đều là không. Trong tánh, tướng không ấy, tất cả thơ luận đều bất khả đắc. Và lại, trong các thơ luận thế tục ngoại đạo đã thuyết, những sự lý phần nhiều có thêm bớt. Đối với đạo Bồ Tát không thể nào tùy thuận được, vì chúng đều thuộc vào những lời hy luận tạp quế, nên các Bồ Tát biết nhưng chẳng ưa. Nếu Đại Bồ Tát thành tựu các hành động tướng trạng như thế, thì biết đó là Đại Bồ Tát bất thối chuyển. Lại nữa, Thiện Hiện. Tất cả Đại Bồ Tát bất thối chuyển còn có nhiều hành động tướng trạng khác nữa, nên biết đều là Đại Bồ Tát bất thối chuyển. Ta sẽ vì ông phân biệt giải nói. Ông hãy lắng nghe cho kỹ, suy nghĩ cho rốt tráo. Thiện Hiện thưa Thỉnh. Dạ, xin Thế Tôn Thuyết cho. Hôm nay chúng con dốc lòng muốn nghe. Phật bảo. Thiện Hiện. Đã có Đại Bồ Tát bất thối chuyển hành bác nhã Ba-la-mật-đa thâm sâu, tuy thông suốt các pháp đều vô sở hữu, thường chẳng xa liều tâm Đại Bồ Đề, nhưng chẳng ưa xem xét luận nói về các quận, các xứ và các giới. Vì sao? Vì Đại Bồ Tát này đã suy nghĩ rốt tráo và thông suốt hoàn toàn chân lý về tánh, tướng không của quận, xứ, giới. Thiện Hiện nên biết. Đại Bồ Tát này chẳng ưa xem xét luận nói về việc chúng. Vì sao? Vì Đại Bồ Tát này đã suy nghĩ rốt tráo và thông suốt hoàn toàn chân lý về tánh, tướng không của tất cả chúng. Thiện Hiện nên biết. Đại Bồ Tát này chẳng ưa xem xét luận nói về việc vua. Vì sao? Vì Đại Bồ Tát này đã trụ bản tánh không, nên chẳng thấy pháp nhỏ nào có tướng hơn, thua, sang, hèn. Thiện Hiện nên biết. Đại Bồ Tát này chẳng ưa xem xét luận nói về việc kẻ giặc. Vì sao? Vì Đại Bồ Tát này đã trụ tự tướng không, nên chẳng thấy pháp nhỏ nào có tướng được, mất, cho và lấy. Thiện Hiện nên biết. Đại Bồ Tát này chẳng ưa xem xét luận nói về việc quân. Vì sao? Vì Đại Bồ Tát này đã trụ bản tánh không, nên chẳng thấy các pháp có tướng nhiều, ít, hợp, tan. Thiện Hiện nên biết. Đại Bồ Tát này chẳng ưa xem xét luận nói về việc đấu chiến. Vì sao? Vì Đại Bồ Tát này đã khéo an trụ lý chân như các pháp là không, nên chẳng thấy pháp nhỏ nào có tướng mạnh, yếu, thương, giận. Thiện Hiện nên biết. Đại Bồ Tát này chẳng ưa xem xét luận nói về chuyện nam nữ. Vì sao? Vì Đại Bồ Tát này đã trụ các pháp không, nên chẳng thấy pháp nhỏ nào có tướng đẹp, xấu, thương, ghét. Thiện Hiện nên biết. Đại Bồ Tát này chẳng ưa xem xét luận nói về xóm làng. Vì sao? Vì Đại Bồ Tát này đã trụ các pháp không, nên chẳng thấy pháp nhỏ nào có tướng tăng, giảm, hợp, tăng. Thiện Hiện nên biết. Đại Bồ Tát này chẳng ưa xem xét luận nói về thành ấp. Vì sao? Vì Đại Bồ Tát này đã trụ các pháp không, nên chẳng thấy pháp nhỏ nào có tướng nắm giữ hay không nắm giữ đẹp xấu. Thiện Hiện nên biết. Đại Bồ Tát này chẳng ưa xem xét luận nói về chuyện quốc độ. Vì sao? Vì Đại Bồ Tát này an trụ thật tế, nên chẳng thấy các pháp có tướng lệ thuộc hay không lệ thuộc đây kia. Thiện Hiện nên biết. Đại Bồ Tát này chẳng ưa xem xét luận nói về tướng tốt. Vì sao? Vì Đại Bồ Tát này an trụ vô tướng, nên chẳng thấy các pháp có tướng đẹp, xấu sai khác. Thiện Hiện nên biết. Đại Bồ Tát này chẳng ưa xem xét luận nói về đây là tà, đây là hữu tình cho đến đây là người biết, đây là người thấy. Vì sao? Vì Đại Bồ Tát này an trụ rốt tráo không, nên hoàn toàn không thấy tướng tà cho đến người thấy, hoặc tướng có, hoặc tướng không, hoặc sai khác. Thiện Hiện nên biết. Đại Bồ Tát này chẳng ưa xem xét luận nói về các việc thế gian như thế, chỉ ưa xem xét luận nói về bác nhã Balamuddha. Vì sao? Vì bác nhã Balamuddha thăm sâu xa liệt các tướng, có thể chứng đắc quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đề. Thiện Hiện nên biết. Đại Bồ Tát này thường không xa liệt tác ý tương tương với trí nhất thiết trí. Khi tu hành bố thí Balamuddha liệt bỏ việc sang tham. Khi tu hành tịnh giới Balamuddha liệt bỏ việc phạm giới. Khi tu hành an nhẫn Balamuddha liệt bỏ việc giận hờn, tranh chấp. Khi tu hành tinh tấn Balamuddha liệt bỏ sự lười nhát. Khi tu hành tịnh lự Balamuddha liệt bỏ việc tán loạn. Khi tu hành bác nhã Balamuddha liệt bỏ trí tuệ xấu ác. Thiện Hiện nên biết. Đại Bồ Tát này tuy trụ tất cả Pháp đều là không nhưng lại ưa thích chánh Pháp, chẳng thích phi Pháp. Tuy trụ bất khả đắc không nhưng thường khen nợi công đức tam bảo. Thiện Hiện nên biết. Đại Bồ Tát này tuy tu hành tướng chân như các Pháp và Pháp giới đồng một vị, nhưng thích khen nợi các loại công đức của chân như Pháp giới. Thiện Hiện nên biết. Đại Bồ Tát này tuy biết các Pháp trốt tráo đều là không nhưng lại mến bạn lành, chẳng ưa bạn ác. Bạn lành là như lai ứng chánh đẳng giác và các chúng đại Bồ Tát, hoặc hàng thanh văn hoặc độc giác VV, có thể an lập, giáo hóa hữu tình một cách hoàn hảo, khiến họ hướng đến quả vị vô thượng chánh đẳng bồ đệ, nên cũng gọi là bạn lành. Thiện Hiện nên biết. Đại Bồ Tát này thích gần gũi tất cả như lai ứng chánh đẳng giác để lắng nghe chánh Pháp. Nếu nghe như lai ứng chánh đẳng giác đang thuyết chánh Pháp tại thế giới khác liên dụng nguyện lực vãng sanh đến thế giới ấy, cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen, lãnh thọ chánh Pháp. Thiện Hiện nên biết. Đại Bồ Tát này hoặc ngày, hoặc đêm thường chẳng xa lịa tác ý niềm Phật, cũng chẳng xa lịa tác ý nghe Pháp. Nhờ thiện căn này những quốc độ nào có Phật Thế Tôn đang thuyết chánh Pháp, vị ấy liền nương vào nguyện lực đến cõi ấy thọ sanh, hoặc nương thần thông đến đó nghe Pháp. Do nhân duyên đó nên các Đại Bồ Tát này đời đời kiếp kiếp sanh đến chỗ nào cũng không liều Phật, thường nghe chánh Pháp, không có gián đoạn. Thiện Hiện nên biết. Đại Bồ Tát này thường làm lợi ích an lạc cho các hữu tình, nên tuy có thể khởi lên tình lựu về các cõi định vô sắc sâu xa nhưng cũng phương tiện khéo léo khởi tâm về cõi dục, để giáo hóa các hữu tình tu mười thiện nhiệt đạo, cũng theo nguyện lực sanh và quốc độ hiện có Phật thuộc dục giới, cúng dường, cung kính, tôn trọng, nợi khen chiêu Phật thế tôn để lắng nghe chánh Pháp, tu các thắng hạnh. Nếu Đại Bồ Tát thành tựu các hành động tướng trạng như thế, thì biết đó là Đại Bồ Tát bất thối chuyển. Lại nữa, Thiện Hiện. Tất cả Đại Bồ Tát bất thối chuyển thường hành bố thí Balamudda cho đến bác nhã Balamudda. Thường hành Pháp nội không cho đến Pháp vô tính tự tính không. Thường hành chân như cho đến cảnh giới bất tương nghi. Thường hành thánh đế khổ, tập, diệt, đạo. Thường hành bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo. Thường hành bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Thường hành Pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện. Thường hành tám giải thoát cho đến mười biến xướng. Thường hành các địa vị thù thắng của Bồ Tát. Thường hành tất cả Pháp môn Dalani, Pháp môn Tamadia. Thường hành năm loại mắt, sáu phép thần thông. Thường hành mười lực như lai cho đến mười tám Pháp Phật bất cộng. Thường hành đại tử, đại bi, đại dĩ, đại xã. Thường hành Pháp không quên mất, tánh luôn luôn xã. Thường hành trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Thường hành tất cả hành đại Bồ Tát. Thường cầu quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đệ của Chiêu Phật. Thiện hiện nên viết. Đại Bồ Tát này thường không nghi ngờ đối với tâm địa của mình, không nghĩ ta là bậc bất thối chuyển, ta chẳng phải bất thối chuyển. Vì sao? Vì Đại Bồ Tát này không thấy có chút Pháp nào nơi quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đệ để nói có thối chuyển hoặc nói không thối chuyển. Thiện hiện nên biết. Đại Bồ Tát này không nghi ngờ đối với Pháp của địa vị chính mình. Vì sao? Vì Đại Bồ Tát này đã hiểu rốt tráo, thông suốt hoàn toàn đối với Pháp của địa vị chính mình. Thiện hiện nên biết. Như bậc dự lưu trụ quả dự lưu, không nghi ngờ đối với Pháp của quả ấy. Bậc nhất lai, bất hoàng, à-la-hán, độc giác và chưa như lai ứng chánh đẳng giác mỗi vị đều trụ quả của riêng mình, không có sự nghi ngờ đối với Pháp trong chính quả ấy. Đại Bồ Tát này cũng như vậy, đối với các Pháp thuộc về địa vị bất thối chuyển mà mình đang trụ thì biết rõ, thấy rõ, không còn mê hoạch, nghi ngờ. Thiện hiện nên biết. Đại Bồ Tát này trụ trong địa vị này, thành thuộc hữu tình, trang nghiêng thanh tịnh cõi Phật, tu các công đức, nếu có việc ma khởi lên liền giác tri ngay, chẳng theo thế lực của ma sự mà chuyển đổi, có thể tiêu diệt hoàn toàn các ma sự, giúp cho công đức tu hành chẳng bị chứng ngại. Thiện hiện nên biết. Như người tạo nghiệp vô gián, tâm vô gián ấy luôn luôn theo sát họ cho đến lúc qua đời cũng không rời bỏ. Vì sao? Vì nó hay phát sanh để tạo nghiệp vô gián, do thế lực tăng thêm nên chuyển biến mãi cho đến khi qua đời cũng không thể chế phục được. Giá như có tâm tốt khác cũng không thể ngăn ngại được. Đại Bồ Tát này cũng như vậy, khi an trụ địa vị chính mình, tâm chẳng giao động, không có sự phân biệt, nên không bị trời, người, Atula V.V. ở thế gian xoay chuyển nổi. Vì sao? Vì tâm của Đại Bồ Tát này vững vàng, vượt qua trời, người, Ma Phạm, Atula V.V. ở thế gian đã nhập vào chánh tánh ly xanh của Bồ Tát, trụ bật bất thối, được thần thông thù thắng của Bồ Tát, thành thuộc hữu tình, trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật. Từ cõi Phật này đến cõi Phật khác, cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen Chiêu Phật Thế Tôn và các đệ tử Phật, lắng nghe chánh Pháp. Ở chỗ Chiêu Phật gieo trồng nhiều căng lành, thỉnh hỏi Pháp nghĩa mà Bồ Tát tu học. Thiện hiện nên biết, Đại Bồ Tát này an trụ địa vị chính mình, nếu có khởi ma sự liền biết ngay, quyết không chuyển đổi theo ma sự ấy. Dùng phương tiện thiện xảo tập trung các ma sự để vào trong thật tế, rồi phương tiện trừ diệt. Đối với Pháp của địa vị chính mình không mê hoạt, nghi ngờ. Vì sao? Vì Đại Bồ Tát này biết tất cả Pháp đều vào thật tế, thông xúc thật tế, chẳng một, chẳng nhiều. Ở trong thật tế không có sự phân biệt, vì đối với thật tế không còn mê hoạt, nghi ngờ gì đối với Pháp địa vị chính mình, cũng không có do dự. Thiện hiện nên biết, nếu có chuyển thọ xanh thì Đại Bồ Tát này cũng chẳng thối lui đối với thật tế, quyết không phát khởi tác ý hướng tới bật thanh văn và độc giác. Vì sao? Vì Đại Bồ Tát này biết tự tướng tất cả Pháp đều là không. Trong cái không này chẳng thấy có Pháp nào hoạt xanh, hoạt diệt, hoạt nhiễm, hoạt tịnh. Thiện hiện nên biết, cho đến khi chuyển thân, Đại Bồ Tát này cũng chẳng nghi ngờ rằng ta sẽ đắc quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đề hay sẽ không được. Vì sao? Vì Đại Bồ Tát này thông xúc tự tướng các Pháp đều không, tức là quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đề. Thiện hiện nên biết, Đại Bồ Tát này an trụ địa vị chính mình chẳng theo duyên bên ngoài. Đối với Pháp nơi địa vị chính mình chẳng ai có thể phá hoại được. Vì sao? Vì Đại Bồ Tát này thành tựu trí không giao động, trí không thối lui, tất cả ác duyên không thể làm lung lây được. Nếu Đại Bồ Tát này thành tựu các hành động tướng trạng như thế thì biết đó là Đại Bồ Tát bất thối chuyển. Lại nữa, thiện hiện. Giả sử có ác ma giả dạng Đức Phật đi đến chỗ của tất cả Đại Bồ Tát bất thối chuyển mà nói thế này, này ông nên cầu quả A-la-háng, chấm dứt các lậu, chiếm nhập Niết Bàn. Ông chưa nhận thọ ký Đại Bồ Đệ, cũng chưa chứng đắc vô sanh Pháp nhẫn. Này ông chưa có các hành tướng của bậc bất thối chuyển. Như lai không nên thọ ký vô thường Đại Bồ Đệ cho ông. Ông cần phải có đầy đủ các hành tướng của bậc bất thối chuyển mới có thể mong Phật thọ ký quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đệ. Nghe những lời này rồi tâm của Đại Bồ Tát này chẳng giao động, không thối lui, chẳng sửng sốt, chẳng sợ hãi. Đại Bồ Tát này phải tự chứng biết, ta đã nhận thọ ký Đại Bồ Đệ ở chỗ các đức như lai quá khứ. Vì sao? Vì Đại Bồ Tát đã thành tựu các tháng Pháp như vậy, chắc chắn chư Phật sẽ thọ ký Đại Bồ Đệ. Ta đã thành tựu các tháng Pháp như thế, lẽ nào Thế Tôn chẳng thọ ký cho ta? Vì thế nên chắc chắn ta được chư Phật quá khứ thọ ký Đại Bồ Đệ. Nếu Đại Bồ Tát thành tựu các hành động tướng trạng như thế, thì biết đó là Đại Bồ Tát bất thối chuyển. Lại nữa, thiện hiện. Giả sử có ác ma, hoặc sứ giả của ma giả dạng Đức Phật đến chỗ tất cả Đại Bồ Tát bất thối chuyển thọ ký bật thanh văn, hoặc bật độc giác cho Bồ Tát và bảo Bồ Tát, thiện nam tử. Cần gì quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đệ, sanh tử luôn hồi, miệt mài chịu khổ? Hãy mau chứng vô dư nhiết bàn, chấm dứt sanh tử, an vui hoàn toàn. Nghe lời ấy rồi, Đại Bồ Tát này nghĩ như vậy, chắc chắn đây là ác ma hoặc sứ giả của ma giả dạng Đức Phật để quấy nhiễu tâm ta, thọ ký cho ta bật thanh văn và độc giác, khiến ta thối lui quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đệ. Vì sao? Vì nhất định không có chư Phật nào dạy các Đại Bồ Tát hướng tới thanh văn hoặc bật độc giác, lìa bỏ quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đệ. Nếu Đại Bồ Tát này thành tựu các hành động tướng trạng như thế, thì biết đó là Đại Bồ Tát bất thối chuyển. Lại nữa, thiện hiện, giả sử có ác ma, hoặc sứ giả của ma giả dạng Đức Phật đến chỗ tất cả Đại Bồ Tát bất thối chuyển mà bảo, kinh điển đại thừa mà ông đã thọ trì chẳng phải Phật thuyết, cũng chẳng phải đệ tử Phật thuyết. Đó là các ác ma hoặc các ngoại đạo vì dối gạt ông nên nói như vậy. Này ông chớ nên thọ trì, đọc tùng. Nghe lời ấy rồi, Đại Bồ Tát này nghĩ như vậy, chắc chắn đây là ác ma hoặc sứ giả của ma khiến ta chán bỏ quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đệ, nên nói kinh điển đại thừa sâu xa chẳng phải Phật thuyết, cũng chẳng phải đệ tử như lai thuyết. Vì sao? Vì liệt kinh điển này mà có thể chứng quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đệ, chắc chắn không có điều đó. Thiện hiện nên biết, Đại Bồ Tát này chắc chắn đã an trụ bật bất thối chuyển, được chiêu Phật quá khứ thọ ký Đại Bồ Đệ lâu rồi. Vì sao? Vì Đại Bồ Tát này thành tựu đầy đủ các hành động tướng trạng của bật bất thối chuyển. Nếu các Bồ Tát thành tựu các hành động tướng trạng như vậy, thì phải biết đã được thọ ký Đại Bồ Đệ rồi, tất đã an trụ bật bất thối chuyển nên có thể nhận biết được việc làm của ác ma. Nếu Đại Bồ Tát thành tựu các hành động tướng trạng như thế, thì biết đó là Đại Bồ Tát bất thối chuyển. Lại nữa, thiện hiện. Khi hành bác nhã Ba-la-mật-đa thăm sâu, tất cả Đại Bồ Tát bất thối chuyển đều hồi trì chánh pháp, chẳng tiếc thân mạng, huống gì các cụ cãi, bè bạn, dòng họ. Đại Bồ Tát này luôn nghĩ như vậy, ta thà lìa bỏ bà con, bạn bè, cụ cãi và thân mạng mình, chứ nhất định chẳng lìa bỏ chánh pháp của chiêu Phật. Vì sao? Vì bà con, bạn bè, cụ cãi và thân mạng mình đời đời thường có, rất là dễ được. Chánh pháp của chiêu Phật trăm ngàn nguồn ước kiếp mới được gặp một lần. Gặp được chánh pháp như mãi mãi được lợi lạc lớn, nên ta nhất định phải siêng năng hộ trì, chẳng tiếc thân mạng, bà con, bạn bè và cụ cãi. Thiện hiện nên viết. Khi hộ trì chánh pháp, Đại Bồ Tát này nghĩ như vậy, này ta không vì hộ trì chánh pháp của một Đức Phật, hai Đức Phật, ba Đức Phật cho đến trăm ngàn Đức Phật mà hộ trì tất cả chánh pháp của chiêu Phật khắp mười phương ba đời, làm cho chánh pháp chẳng bị tổn giảm. Cụ thọ thiện hiện liền bạch Phật. Bạch Thế Tôn Những gì là chánh pháp của chiêu Phật? Tại sao Đại Bồ Tát này hộ trì chẳng tiếc thân mạng, bà con, bạn bè, và cụ cãi? Phật bảo Thiện hiện Vì tất cả như lai ứng chánh đẳng giác đã thuyết cho các Đại Bồ Tát nghe các pháp là không. Như vậy gọi là chánh pháp của chiêu Phật. Có hàng ngu si chê bai, hủy bán rằng đây là phi pháp, phi luật, chẳng phải thánh giáo mà đấng thiên nhân sư đã nói, tu học pháp này chẳng chứng quả vị vô thường chánh đẳng bồ đệ, chẳng chứng niết bàn tịch tịnh an vui. Đại Bồ Tát này hộ trì pháp này chẳng tiếc thân mạng, bà con, bạn bè, và cụ cãi lại thường nghĩ, như lai đã thuyết tất cả pháp không, là chỗ quay về nương tự chân thật của các hữu tình, Bồ Tát tu học pháp này mau chứng quả vị vô thường chánh đẳng bồ đệ, cứu các hữu tình thoát khỏi sanh, lão, bệnh, tử, khiến họ được niết bàn rốt tráo thường lạc. Vì thế nên nay ta hộ trì pháp này chẳng tiếc thân mạng, cụ cãi, bà con, bạn bè. Ta sẽ được ở trong số chư Phật đời vị lai. Đức Phật đã thọ ký đại bồ đệ cho ta. Vì vậy, chánh pháp của chư Phật tức là chánh pháp của ta. Ta phải hộ trì, chẳng tiếc thân mạng, cụ cãi, bà con, bạn bè. Ở đời vị lai khi thành Phật, ta cũng vì hữu tình tuyên thuyết các pháp không như vậy. Thiện hiện nên biết, đại bồ tát này thấy được ý nghĩa và lợi ích việc hộ trì chánh pháp mà như lai đã thuyết, nên chẳng tiếc thân mạng, cụ cãi, bà con, bạn bè, cho đến đắc quả bồ đệ thường không lười mỏi. Nếu đại bồ tát thành tựu các hành động tướng trạng như thế, thì biết đó là đại bồ tát bất thối chuyển. Lại nữa, thiện hiện. Khi nghe chánh pháp mà chư như lai ứng chánh đẳng giác đã thuyết cho tất cả đại bồ tát bất thối chuyển đều không mê hoặc, nghi ngờ, nghe rồi thọ trì và không quên mất, cho đến quả vị vô thường chánh đẳng bồ đệ. Vì sao? Vì đại bồ tát này đã được Đà-la-ni một cách thiện xảo. Cụ thọ thiện hiện liện bạch Phật. Bạch Thế Tôn. Đại bồ tát này đã được những Đà-la-ni nào mà nghe chánh pháp của chư như lai ứng chánh đẳng giác thuyết ra không còn mê hoặc, nghi ngờ, nghe rồi thọ trì không quên mất. Phật bảo. Thiện hiện. Đại bồ tát này đã được phương tiện thiện xảo của sự nghe trì Đà-la-ni nên nghe chánh pháp mà chư như lai ứng chánh đẳng giác đã thuyết không có mê hoặc, nghi ngờ, nghe rồi thọ trì và không quên mất, cho đến quả vị vô thường chánh đẳng bồ đệ luôn giống như đang nghe Đức Phật thuyết. Thiện hiện lại bạch Phật. Bạch Thế Tôn. Đại bồ tát này nghe chánh pháp mà chư như lai ứng chánh đẳng giác đã thuyết không mê hoặc, nghi ngờ, nghe rồi thọ trì chẳng quên mất. Hoặc nghe bồ tát, đọc giác, thanh văn, trời, rồng, dược xoa, người chẳng phải người v.v. thuyết chánh pháp cũng không mê hoặc, nghi ngờ đối với chánh pháp, nghe rồi thọ trì chẳng quên mất. Phật bảo. Thiện hiện. Đại bồ tát này có thể thông suốt hoàn toàn, không còn mê hoặc, nghi ngờ, nghe được nghĩa lý của âm thanh, ngôn ngữ, văn tử của tất cả hữu tình và cho đến tận đời vị lai cũng chẳng quên mất. Vì sao? Vì Đại bồ tát này đã chứng được phương tiện thiện xảo của sự nghe trị Đà-La-Ni, đi nhận trọn vẹn những gì đã nói khiến chẳng quên mất. Nếu Đại bồ tát thành tựu các hành động tướng trạng như thế, thì biết đó là Đại bồ tát bất thối chuyển. 21. Phẩm tướng 001 Bây giờ, cụ thọ thiện hiện lại Bạch Phật. Bạch Thế Tôn Đại bồ tát bất thối chuyển này thành tựu công đức khi hữu trọng lớn vô lượng, vô biên không thể nghỉ bàn. Phật bảo. Thiện hiện. Đúng vậy. Đúng vậy. Đúng như lời ông nói. Vì sao? Vì Đại bồ tát này đã đạt được trí thù thắng vô lượng, vô biên, không đồng hạn với thanh văn và độc giác. Trụ trong trí này sẽ phát khởi bốn sự hiểu biết thông suốt thù thắng. Do bốn sự hiểu biết thông suốt thù thắng này, trời, người, Atula V.V. ở thế gian không thể vấn nạn, khiến cho trí tuệ biện tại của Đại bồ tát này đi đến chỗ bị cung tận. Cụ thọ thiện hiện lại Bạch Phật. Bạch Thế Tôn Có thể trải qua hàng hà sa số kiếp để tuyên thuyết các hành động tướng trạng của Đại bồ tát bất thối chuyển mà Thế Tôn đã nói. Hoặc chỉ rõ các hành động tướng trạng của Đại bồ tát bất thối chuyển đã thành tựu công đức thù thắng vô thường. Cúi xin như lai ứng chánh đẳng giác nói lại nghĩa lý sâu xa, khiến cho các Đại bồ tát an trụ trong đó có thể hành bố thí Balamudda cho đến bát nhã Balamudda mau được viên mãng. Có thể hành pháp nội không cho đến pháp vô tính tự tính không mau được viên mãng. Có thể hành chân như cho cảnh giới bất tương nghi mau được viên mãng. Có thể hành thánh đế khổ, tập, diệt, đạo mau được viên mãng. Có thể hành bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo mau được viên mãng. Có thể hành bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc mau được viên mãng. Có thể tu hành tám giải thoát cho đến mười biến phiếu mau được viên mãng. Có thể hành pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện mau được viên mãng. Có thể hành các bật của Đại Bồ-Tát mau được viên mãng. Có thể hành tất cả pháp môn Đà-La-Ni, pháp môn Tam-Ma-Địa mau được viên mãng. Có thể hành năm loại mắt, sáu phép thần thông mau được viên mãng. Có thể hành mười lực như lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng mau được viên mãng. Có thể hành Đại Từ, Đại Bị Đại Hỷ, Đại Phả mau được viên mãng. Có thể hành ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp mau được viên mãng. Có thể hành pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả mau được viên mãng. Có thể hành trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng mau được viên mãng. Phật bảo, Thiện Hiện, lành thay, lành thay. Nay ông mới có thể vì các chúng Đại Bồ-Tát thỉnh hỏi như lai ứng chánh đẳng giác về nghĩa lý sâu xa, khiến cho các Bồ-Tát an trụ trong đó tu hành các công đức mau được viên mãng. Thiện Hiện nên biết, nghĩa lý sâu xa ấy là không, vô tướng, vô nguyện, vô tát, vô sanh, vô diệt, lì nhiễm, Niết Bàn, Chân Như, Pháp Giới, Pháp Tánh, Thực Tế. Tất cả những pháp ấy là nghĩa lý sâu xa. Thiện Hiện nên biết, tất cả những lời lễ thù thắng mà như lai đã nói về nghĩa lý sâu xa này đều để chỉ rõ nghĩa của Niết Bàn là thầm thâm. Cụ Thọ Thiện Hiện lại bạch Phật. Bạch Thế Tôn. Chỉ có nghĩa của Niết Bàn là thầm thâm hay các pháp khác cũng gọi là thầm thâm. Phật Bảo. Thiện Hiện. Tất cả các pháp khác cũng gọi là thầm thâm. Đó là Sắc Quẩn cho đến Thức Quẩn cũng gọi là thầm thâm. Nhãn Sứ cho đến Ý Sứ cũng gọi là thầm thâm. Sắc Sứ cho đến Pháp Sứ cũng gọi là thầm thâm. Nhãn Giới cho đến Ý Giới cũng gọi là thầm thâm. Sắc Giới cho đến Pháp Giới cũng gọi là thầm thâm. Nhãn Thức Giới cho đến Ý Thức Giới cũng gọi là thầm thâm. Nhãn Xuất cho đến Ý Xuất cũng gọi là thầm thâm. Các Thọ Do Nhãn Xuất làm Duyên sanh ra cho đến các Thọ Do Ý Xuất làm Duyên sanh ra cũng gọi là thầm thâm. Ý A Giới cho đến Thức Giới cũng gọi là thầm thâm. Nhân Duyên cho đến Tăng Thượng Duyên cũng gọi là thầm thâm. Vô Minh cho đến Lão Tử cũng gọi là thầm thâm. Vố Thí Ba La Mật Đa cho đến Bác Nhã Ba La Mật Đa cũng gọi là thầm thâm. Pháp Nội Không cho đến Pháp Vô Tính Tự Tính Không cũng gọi là thầm thâm. Chân Như cho đến Cảnh Giới Bất Tương Nghì cũng gọi là thầm thâm. Thánh Đế Khổ, Tập, Diệt, Đạo cũng gọi là thầm thâm. 4 Niệm Trụ cho đến 8 Chi Thánh Đạo cũng gọi là thầm thâm. 4 Tịnh Lự, 4 Vô Lượng, 4 Định Vô Sắc cũng gọi là thầm thâm. 8 Giải Thoát cho đến 10 Biến Xứ cũng gọi là thầm thâm. Pháp Môn Giải Thoát Không, Vô Tướng, Vô Nguyện cũng gọi là thầm thâm. Tình Quán Địa cho đến Như Lai Địa cũng gọi là thầm thâm. Cực Khỉ Địa cho đến Pháp Vân Địa cũng gọi là thầm thâm. Pháp Môn Đà La Ni, Pháp Môn Tam Ma Địa cũng gọi là thầm thâm. 5 Loại Mắt, 6 Phép Thần Thông cũng gọi là thầm thâm. 10 Lực Như Lai cho đến 18 Pháp Phật Bất Cộng cũng gọi là thầm thâm. Đại Từ, Đại Bi, Đại Hỷ, Đại Xã cũng gọi là thầm thâm. 32 Tướng Tốt, 80 Vẽ Đẹp cũng gọi là thầm thâm. Pháp Không Quên Mất, Tánh Luôn Luôn Xã cũng gọi là thầm thâm. Trí Nhất Thiết, Trí Đạo Tướng, Trí Nhất Thiết Tướng cũng gọi là thầm thâm. Quả Dự Lưu cho đến Độc Giác Bồ Đề cũng gọi là thầm thâm. Tất Cả Hành Đại Bồ Tát, Quả Vị Vô Thường Chánh Đẳng Bồ Đề của Chiêu Phật cũng gọi là thầm thâm. Bây giờ, thiện hiện lại Bạch Phật. Vì Sao Sắc Quẩn cũng gọi là thầm thâm. Vì Sao Thọ, Tưởng, Hành, Thức cũng gọi là thầm thâm. Nói rộng cho đến Vì Sao Tất Cả Hành Đại Bồ Tát cũng gọi là thầm thâm. Vì Sao Quả Vị Vô Thường Chánh Đẳng Bồ Đề của Chiêu Phật cũng gọi là thầm thâm. Phật bảo. Thiện hiện. Vì chân như Sắc Quẩn rất thầm thâm nên Sắc Quẩn cũng gọi là thầm thâm. Chân như Thọ, Tưởng, Hành, Thức Quẩn rất thầm thâm nên Thọ, Tưởng, Hành, Thức Quẩn cũng gọi là thầm thâm. Nói rộng cho đến chân như Tất Cả Hành Đại Bồ Tát rất thầm thâm nên Tất Cả Hành Đại Bồ Tát cũng gọi là thầm thâm. Chân như Quả Vị Vô Thường Chánh Đẳng Bồ Đề của Chiêu Phật rất thầm thâm nên Quả Vị Vô Thường Chánh Đẳng Bồ Đề của Chiêu Phật cũng gọi là thầm thâm. Cụ Thọ Thiện hiện lại bạch Phật. Vì sao chân như Sắc Quẩn thầm thâm? Vì sao chân như Thọ, Tưởng, Hành, Thức Quẩn thầm thâm? Nói rộng cho đến vì sao chân như Tất Cả Hành Đại Bồ Tát thầm thâm? Vì sao chân như Quả Vị Vô Thường Chánh Đẳng Bồ Đề của Chiêu Phật thầm thâm? Phật bảo. Thiện hiện. Chân như Sắc Quẩn chẳng phải Sắc Quẩn. Chẳng phải Li Sắc Quẩn nên thầm thâm. Chân như Thọ, Tưởng, Hành, Thức Quẩn chẳng phải Thọ, Tưởng, Hành, Thức Quẩn. Chẳng phải Li Thọ, Tưởng, Hành, Thức Quẩn nên thầm thâm. Nói rộng cho đến chân như Tất Cả Hành Đại Bồ Tát chẳng phải Tất Cả Hành Đại Bồ Tát. Chẳng phải Li Tất Cả Hành Đại Bồ Tát nên thầm thâm. Chân như Quả Vị Vô Thường Chánh Đẳng Bồ Đề của Chiêu Phật chẳng phải Quả Vị Vô Thường Chánh Đẳng Bồ Đề của Chiêu Phật. Chẳng phải Li Quả Vị Vô Thường Chánh Đẳng Bồ Đề của Chiêu Phật nên thầm thâm. Hiện hiện lại Bạch Phật. Bạch Thế Tôn. Thật kỳ lạ. Phương tiện nhịn màu vì Đại Bồ Tát bất thối chuyển đem ví dụ khác về Sắc Quẩn để hiển bày Niết Bàn, đem ví dụ khác về Thọ, Tưởng, Hành, Thức Quẩn để hiển bày Niết Bàn. Nói rộng cho đến đem ví dụ khác về tất cả hành Đại Bồ Tát để hiển bày Niết Bàn, đem ví dụ khác về Quả Vị Vô Thường Chánh Đẳng Bồ Đề của Chiêu Phật để hiển bày Niết Bàn. Bạch Thế Tôn. Thật kỳ lạ. Phương tiện nhịn màu vì Đại Bồ Tát bất thối chuyển đem ví dụ khác về tất cả Pháp Thế Giang, hoặc Pháp Xuất Thế Giang, hoặc Cộng Pháp, hoặc Bất Cộng Pháp, hoặc Pháp Hữu Lậu, hoặc Pháp Vô Lậu, hoặc Pháp Hữu Tránh, hoặc Pháp Vô Tránh, hoặc Pháp Hữu Tội, hoặc Pháp Vô Tội, hoặc Pháp Hữu Vi, hoặc Pháp Vô Vi để hiển bày Niết Bàn. Phật bảo. Hiện hiện. Đúng vậy. Đúng như lời ông nói. Bạch Thế Tôn. Thật kỳ lạ. Với phương tiện nhịn màu vì Đại Bồ Tát bất thối chuyển mà ngại đem ví dụ khác về sát quẩn để hiển bày Niết Bàn, đem ví dụ khác về thọ, tưởng, hành, thức quẩn để hiển bày Niết Bàn. Nói rộng cho đến đem ví dụ khác về tất cả hành Đại Bồ Tát để hiển bày Niết Bàn, đem ví dụ khác về quả vị vô thường chánh đẳng bồ đệ của chư Phật để hiển bày Niết Bàn. Bạch Thế Tôn. Thật kỳ lạ. Với phương tiện nhịn màu vì Đại Bồ Tát bất thối chuyển, ngại đã đem ví dụ khác về tất cả Pháp Thế Giang, hoặc Pháp Xuất Thế Giang, hoặc Pháp Cộng, hoặc Pháp Bất Cộng, hoặc Pháp Hữu Lậu, hoặc Pháp Vô Lậu, hoặc Pháp Hữu Tránh, hoặc Pháp Vô Tránh, hoặc Pháp Có Hữu Tội, hoặc Pháp Vô Tội, hoặc Pháp Hữu Vi, hoặc Pháp Vô Vi để hiển bày Niết Bàn. Hiện hiện. Đối với nghĩa lý thâm sâu này, các Đại Bồ Tát nên dựa vào nghĩa lý tương tương với bác nhã Balamuddha thâm sâu, suy nghĩ thật kỹ, so lường quan sát, nên nghĩ thế này, ta nay phải trụ nhiều bác nhã Balamuddha thâm sâu đã dạy. Nay ta phải học nhiều bác nhã Balamuddha thâm sâu đã nói. Hiện hiện nên biết. Đối với nghĩa lý thâm thâm như thế, Đại Bồ Tát có thể dựa vào nghĩa lý tương ưng với bác nhã Balamuddha thâm sâu, suy nghĩ thật kỹ, quan sát so lường, nhiều bác nhã Balamuddha thâm sâu đã dạy mà trụ, nhiều bác nhã Balamuddha thâm sâu đã nói mà học. Đại Bồ Tát này do suy năng tu học như vậy, do dựa vào bác nhã Balamuddha thâm sâu chỉ khởi lên một tâm niệm mà còn có thể lãnh thọa vô số, vô lượng, vô biên căng lành, vượt qua sanh tử luân hội trong vô lượng kiếp, mau chứng quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề, húng chi thường tu bác nhã Balamuddha không gián đoạn, thường trụ tác ý tương ưng bồ đề. Giống như người đam mê dục lạc cùng với thiếu nữ xinh đẹp yêu nhau, cùng hẹn ước. Nhưng thiếu nữ ấy gặp trắc trở, không thể đến chỗ đã ước hẹn. Người này dục tâm hừng hãy lan tràn. Thiện hiện. Ý ông thế nào? Do đâu mà dục tâm người ấy lan tràn? Bạch thế tôn. Do người nữ kia mà dục âm người này bừng cháy lan tràn, khởi lên ý nghĩ, vì sao người ấy chẳng đến đây để cùng nhau vui chơi hưởng lạc. Thiện hiện. Ý ông thế nào? Người ấy suốt ngày đêm đã khởi lên bao nhiêu dục niệm? Bạch thế tôn. Suốt ngày đêm người này khởi lên rất nhiều dục niệm. Phật bảo. Thiện hiện. Nếu Đại Bồ Tát dựa vào bác nhã Balamuddha thăm sâu khởi lên một niệm như bác nhã Balamuddha thăm sâu đã thuyết mà học, thì đã vượt qua số kiếp sanh tử lưu chuyển nhiều như số dục niệm của người đam mê dục lạc suốt cả ngày đêm. Thiện hiện nên biết. Đại Bồ Tát này nương theo nghĩa lý thăm sâu của bác nhã Balamuddha thăm sâu, suy nghĩ tu học mà được giải thoát và có thể ngăn cản những lỗi lầm của quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đề. Thế nên, Bồ Tát nương vào bác nhã Balamuddha thăm sâu tính tấn tu học, mau chính quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đề. Thiện hiện nên biết. Nếu Đại Bồ Tát an trụ vào bác nhã Balamuddha thăm sâu đã thuyết trải qua một ngày đêm thì đạt được công đức. Nếu công đức này có hình tướng thì hàng hạ sa số ba ngàn đại thiên thế giới chư Phật cũng không thể dung chứa hết. Giả sử có các công đức khác nhiều như các sông hằng, đầy dậy cả thế giới Phật ba ngàn đại thiên, đem so sánh với công đức này thì trăm phần không bằng một, ngàn phần không bằng một, cho đến không bằng một phần rất nhỏ.

Listen Next

Other Creators