Home Page
cover of kinhdaibatnha (584)
kinhdaibatnha (584)

kinhdaibatnha (584)

Phuc Tien

0 followers

00:00-40:02

Nothing to say, yet

Podcastspeech synthesizerspeechnarrationmonologuemale speech

Audio hosting, extended storage and much more

AI Mastering

Transcription

Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa Tập 24 Quyển 584 Hội thứ 12 Phân Tịnh Giới B.A.L.A.N.M.T.D.A.01 Tôi nghe như vậy. Một thời Đức Bạch Gia Phạm cùng với 1.250 chúng Đại Bí Sô Trú ở vườn Cấp Cô Độc, rừng Thệ Đa, thành thất La Việt. Bây giờ, Thế Tôn Bảo Cụ Thọ xá lợi tử. Bây giờ, Thầy nên vì các Đại Bồ Tát muốn chứng quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đề mà tuyên thuyết Tịnh Giới Ba La Mật Đa. Xá lợi tử vân theo lời dạy của Phật và nương vào Thần Lực Phật, Giáo Húng, trao truyền Tịnh Giới Ba La Mật Đa cho các Đại Bồ Tát. Khi ấy, Mãn Từ Tử liên hỏi Cụ Thọ xá lợi tử. Làm sao biết được Bồ Tát trì giới? Làm sao biết được Bồ Tát phạm giới? Thế nào là nơi hành xứ của Bồ Tát? Thế nào là chẳng phải nơi hành xứ của Bồ Tát? Xá lợi tử liên trả lời Cụ Thọ Mãn Từ Tử. Nếu các Bồ Tát tách ý an trụ Thanh Văn, độc giác, thì gọi là chẳng phải nơi hành xứ của Bồ Tát. Nếu các Bồ Tát an trụ nơi này nên biết là Bồ Tát phạm giới. Nếu các Bồ Tát hành nơi phi xứ này thì các Bồ Tát này nhất định không giữ gìn được Tịnh Giới Ba La Mật Đa. Nếu các Bồ Tát quyết định không giữ gìn Tịnh Giới Ba La Mật Đa thì các Bồ Tát này xả bỏ bổn nguyện. Nếu các Bồ Tát xả bỏ bổn nguyện nên biết là Bồ Tát phạm giới. Lại nữa, Mãn Từ Tử. Nếu các Bồ Tát tu hành bố thí, hồi hướng đến địa vị Thanh Văn, hoặc độc giác thì gọi là Bồ Tát hành nơi phi xứ. Nếu Bồ Tát hành nơi phi xứ nên biết đây là Bồ Tát phạm giới. Nếu các Bồ Tát an trụ tại nhà, hưởng thọ năm dục lạc thượng diệu nên biết chẳng phải là Bồ Tát phạm giới. Nếu khi Bồ Tát hành bố thí, hồi hướng đến địa vị Thanh Văn, hoặc độc giác, không cầu quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đệ nên biết đây là Bồ Tát phạm giới. Ví như Vương Tử nên học giáo lệnh của Phụ Vương và học những pháp mà Vương Tử cần phải học. Nghĩa là các Vương Tử đều nên khéo học các ngành nghề tinh xảo và các sự nghiệp. Các ngành nghề tinh xảo và các sự nghiệp là luyện học các bộ môn, những công việc như viết cởi voi, ngựa, xe và giỏi cầm cương, cung, nỏ, mau nhọn, đào, mau cán dài, lưỡi câu tròn, chạy nhảy, tránh né, chữ viết, in ấn, toán số, thanh luận, nhân minh luận v.v. Nếu các Vương Tử xuyên năng học tập các thứ như vậy là thuần theo lợi ích pháp vua. Tuy hưởng thọ, vui đùa thỏa thích năm dục lạc nhưng không bị nhà vua của trách. Bồ tát cũng vậy, xuyên năng cầu quả vị vô thường chánh đẳng bồ đệ, tuy ở tại nhà hưởng thọ thỏa thích năm dục lạc nhưng không trái nghịch với trí nhất thiết trí. Nếu khi các bồ tát hành bố thí, hồi hướng địa vị thanh văn, độc giác thì các bồ tát này hành nơi phi xứn, chẳng phải là thử ruộng cho trí nhất thiết. Từng giờ, từng giờ chẳng thành thử ruộng cho trí nhất thiết. Từng lúc, từng lúc không thể giữ gìn tịnh giới ba la mật đa của bồ tát. Từng giờ, từng giờ không thể giữ gìn tịnh giới ba la mật đa của bồ tát. Từng lúc, từng lúc xa lìa sự cầu trí nhất thiết trí. Từng giờ, từng giờ xa lìa sự cầu trí nhất thiết trí. Từng lúc, từng lúc hành nơi phi xứn. Từng giờ, từng giờ hành nơi phi xứn. Từng lúc, từng lúc phạm giới bồ tát. Lại nữa, mãn tự tử. Nếu các bồ tát tuy xuất gia thọ trí tịnh giới, nhưng không hồi hướng quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề, thì các bồ tát này nhất định không thành tự tịnh giới bồ tát. Nếu các bồ tát này nhất định không thành tự tịnh giới bồ tát, thì các bồ tát này chỉ có hư danh, hoàn toàn không có thật nghĩa. Nên biết những vị ấy không gọi bồ tát. Nếu các bồ tát tuy ở tại gia nhưng thọ tam quy, có lòng tin tam bảo sâu xa, hồi hướng quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề, thì các bồ tát này dù hưởng thọ năm dục lạc đầy đủ, song đối với sự hành tịnh giới ba-la-mật-đa của bồ tát thường không xa lịa, gọi là người trì tịnh giới chân thật, cũng gọi là an trụ tịnh giới bồ tát. Nếu các bồ tát trụ giới bồ tát thì các bồ tát này thường không xa lịa tịnh giới ba-la-mật-đa của bồ tát. Nếu các bồ tát thường không xa lịa tịnh giới ba-la-mật-đa của bồ tát thì các bồ tát này thường không xa lịa trí nhất thiết trí. Nếu các bồ tát phát khởi nhiều tác ý phi lý, tương ưng với năm dục nhưng chỉ khởi một tâm niệm tương ưng với quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề, thì có thể diệt trừ tất cả. Giống như nhiều Ngọc Ca Gia Mạc Ni, nhưng chỉ một viên lưu ly có thể lớn át tất cả ánh sáng kia. Nghĩa là giá trị, ánh sáng của lưu ly vượt hơn, sáng hơn tất cả Ngọc Ca Gia Mạc Ni. Bồ tát cũng vậy, tuy phát khởi nhiều tác ý phi lý tương ưng với năm dục, nhưng nếu chỉ khởi một tâm niệm tương ưng với quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề, thì sẽ đẩy lùi tất cả, như một số Ngọc Ca Gia bị Ngọc Lưu Ly đoạt mất ánh sáng. Lại nữa, mãn tự tử. Nếu các bồ tát chấp trước các tướng mà hành bố thí, thì các bồ tát này hành nơi phi xứng. Nếu các bồ tát hành nơi phi xứng, nên biết các bồ tát này phạm giới bồ tát. Bồ tát không nên chấp trước các tướng mà hành bố thí, cũng lại không nên chấp trước quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề mà hành bố thí. Vì sao? Mãn tự tử. Vì quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề của chư Phật Sa lị các tướng. Vì sao? Vì mười lực của Như Lai, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xã, mười tám Pháp Phật bất cộng V, V, vô lượng vô biên các Pháp vi dịu của chư Phật đều Sa lị các tướng. Như vậy, bồ tát đối với sự hành bố thí không nên chấp trước. Nếu các bồ tát đối với sự hành bố thí mà không chấp trước, thì các bồ tát này liền hộ trì được tỉnh giới Ba-la-mật-đa của bồ tát, mau chống chứng đắc trí nhất thiết trí. Bây giờ, mãn từ tử liền hỏi cụ thọ Sa lợi tử. Nếu các bồ tát cầu trí nhất thiết trí mà tu hành bố thí, thì các bồ tát này đâu khởi tâm chấp trước trí nhất thiết trí. Nếu các bồ tát khởi tâm chấp trước trí nhất thiết trí sẽ thành giới cấm thủ, thì làm sao gọi là trì giới bồ tát? Sa lợi tử đắc. Trí nhất thiết trí Sa lị các tướng, chẳng phải giữ gìn ở mọi nơi mọi chỗ. Trí nhất thiết trí chẳng phải xác quẩn, không xa lì xác quẩn, chẳng phải thọ, tưởng, hành, thước quẩn, không xa lì thọ, tưởng, hành, thước quẩn. Trí nhất thiết trí chẳng phải nhãn xứ, không xa lì nhãn xứ, chẳng phải nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý xứ, không xa lì nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý xứ. Trí nhất thiết trí chẳng phải xác xứ, không xa lì xác xứ, chẳng phải thanh, hương, vị, xuất, pháp xứ, không xa lì thanh, hương, vị, xuất, pháp xứ. Trí nhất thiết trí chẳng phải nhãn giới, không xa lì nhãn giới, chẳng phải nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý giới, không xa lì nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý giới. Trí nhất thiết trí chẳng phải xác giới, không xa lì xác giới, chẳng phải thanh, hương, vị, xuất, pháp giới, không xa lì thanh, hương, vị, xuất, pháp giới. Trí nhất thiết trí chẳng phải nhãn thức giới, không xa lì nhãn thức giới, chẳng phải nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý thức giới, không xa lì nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý thức giới. Trí nhất thiết trí chẳng phải nhãn xuất, không xa lì nhãn xuất, chẳng phải nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý xuất, không xa lì nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý xuất. Trí nhất thiết trí chẳng phải các thọ do nhãn xuất làm duyên sanh ra, không xa lì các thọ do nhãn xuất làm duyên sanh ra, chẳng phải các thọ do nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý xuất làm duyên sanh ra, không xa lì các thọ do nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý xuất làm duyên sanh ra. Trí nhất thiết trí chẳng phải địa giới, không xa lì địa giới, chẳng phải thủy, hỏa, phòng, không, thức giới, không xa lì thủy, hỏa, phòng, không, thức giới. Trí nhất thiết trí chẳng phải nhân duyên, không xa lì nhân duyên, chẳng phải đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thường duyên, không xa lì đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thường duyên. Trí nhất thiết trí chẳng phải vô minh, không xa lì vô minh, chẳng phải hành, thức, danh sát, lục xứ, xuất, thọ, ái, thủ, thủ, sanh, lão tử, không xa lì hành, thức, danh sát, lục xứ, xuất, thọ, ái thủ, thủ, sanh, lão tử. Trí nhất thiết trí chẳng phải bố thí Ba-la-mật-đa, không xa lì bố thí Ba-la-mật-đa, chẳng phải tỉnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tỉnh lự, bác nhã Ba-la-mật-đa, không xa lì tỉnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tỉnh lự, bác nhã Ba-la-mật-đa. Trí nhất thiết trí chẳng phải pháp nội không, không xa liều pháp nội không, chẳng phải pháp ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không, thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất chánh không, vô tế không, tán không, vô biến dị không, bản tính không, tự tướng không, cộng tướng không, nhất thiết pháp không, bất xả đắc không, vô tính không, tự tính không, vô tính tự tính không, không xa liều pháp ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không, thắng nghĩa không, hữu vi không. vô vi không, tất chánh không, vô tế không, tán không, vô biến dị không, bản tính không, tự tướng không, cộng tướng không, nhất thiết pháp không, bất xả đắc không, vô tính không, tự tính không, vô tính tự tính không. Trí nhất thiết trí chẳng phải chân như, không xa lì chân như, chẳng phải pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly xanh, định pháp, trụ pháp, thực tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tương nhị, không xa lì pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly xanh, định pháp, trụ pháp, thực tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tương nhị. Trí nhất thiết trí chẳng phải thánh đế khổ, không xa lì thánh đế khổ, chẳng phải thánh đế tập, diệt, đạo, không xa lì thánh đế tập, diệt, đạo. Trí nhất thiết trí chẳng phải bốn tỉnh lự, không xa lì bốn tỉnh lự, chẳng phải bốn vô lượng, bốn định vô sắc, không xa lì bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Trí nhất thiết trí chẳng phải bốn niệm trụ, không xa lì bốn niệm trụ, chẳng phải bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căng, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo, không xa lì bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căng, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo. Trí nhất thiết trí chẳng phải pháp môn giải thoát không, không xa lì pháp môn giải thoát không, chẳng phải pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện, không xa lì pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện. Trí nhất thiết trí chẳng phải tám giải thoát không, không xa lì tám giải thoát không, chẳng phải tám tháng sướng, chính định thứ lớp, mười biến sướng, không xa lì tám tháng sướng, chính định thứ lớp, mười biến sướng. Trí nhất thiết trí chẳng phải pháp môn Đà-la-Ni, không xa lì pháp môn Đà-la-Ni, chẳng phải pháp môn Tam-ma-địa, không xa lì pháp môn Tam-ma-địa. Trí nhất thiết trí chẳng phải tỉnh quán địa, không xa lì tỉnh quán địa, chẳng phải chủng tánh địa, tệ bác địa, cụ kiến địa, bạc địa, ly dục địa, dĩ điện địa, độc giác địa, bồ tác địa, như lai địa, không xa lì chủng tánh địa, tệ bác địa, cụ kiến địa, bạc địa, ly dục địa, dĩ điện địa, độc giác địa, bồ tác địa, như lai địa. Trí nhất thiết trí chẳng phải cực khỉ địa, không xa lì cực khỉ địa, chẳng phải ly cấu địa, pháp quan địa, dịnh tuệ địa, cực ngang thắng địa, hiện tiền địa, viễn hành địa, bất động địa, thiền tuệ địa, pháp vân địa, không xa lì ly cấu địa, pháp quan địa, dịnh tuệ địa, cực ngang thắng địa, hiện tiền địa, viễn hành địa, bất động địa, thiền tuệ địa, pháp vân địa. Trí nhất thiết trí chẳng phải năm loại mắt, không xa lì năm loại mắt, chẳng phải sáu phép thần thông, không xa lì sáu phép thần thông. Trí nhất thiết trí chẳng phải mười lực Phật, không xa lì mười lực Phật, chẳng phải bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xã, mười tám pháp Phật bất cộng, không xa lì bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xã, mười tám pháp Phật bất cộng. Trí nhất thiết trí chẳng phải ba mươi hai tướng đại sĩ, không xa lì ba mươi hai tướng đại sĩ, chẳng phải tám mươi vẻ đẹp, không xa lì tám mươi vẻ đẹp. Trí nhất thiết trí chẳng phải Pháp không quên mất, không xa lì Pháp không quên mất, chẳng phải tánh luôn luôn xã, không xa lì tánh luôn luôn xã. Trí nhất thiết trí chẳng phải trí nhất thiết, không xa lì trí nhất thiết, chẳng phải trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, không xa lì trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Trí nhất thiết trí chẳng phải quả dự lưu, không xa lì quả dự lưu, chẳng phải quả nhất lai, bất hoàng, à la hán, độc giác bồ đề, không xa lì quả nhất lai, bất hoàng, à la hán, độc giác bồ đề. Trí nhất thiết trí chẳng phải tất cả hành đại Bồ Tát, không xa lì tất cả hành đại Bồ Tát, chẳng phải quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề của Chiêu Phật, không xa lì quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề của Chiêu Phật. Trí nhất thiết trí chẳng phải pháp hữu sắc, không xa lì pháp hữu sắc, chẳng phải pháp vô sắc, không xa lì pháp vô sắc. Trí nhất thiết trí chẳng phải pháp hữu kiến, không xa lì pháp hữu kiến, chẳng phải pháp vô kiến, không xa lì pháp vô kiến. Trí nhất thiết trí chẳng phải pháp hữu đối, không xa lì pháp hữu đối, chẳng phải pháp vô đối, không xa lì pháp vô đối. Trí nhất thiết trí chẳng phải pháp hữu lậu, không xa lì pháp hữu lậu, chẳng phải pháp vô lậu, không xa lì pháp vô lậu. Trí nhất thiết trí chẳng phải pháp hữu vi, không xa lì pháp hữu vi, chẳng phải pháp vô vi, không xa lì pháp vô vi. Trí nhất thiết trí chẳng phải pháp hữu lượng, không xa lì pháp hữu lượng, chẳng phải pháp vô lượng, không xa lì pháp vô lượng. Trí nhất thiết trí chẳng phải pháp quá khứ, không xa lì pháp quá khứ, chẳng phải pháp vị lai, hiện tại, không xa lì pháp vị lai, hiện tại. Trí nhất thiết trí chẳng phải pháp thiện, không xa lì pháp thiện, chẳng phải pháp bất thiện, vô ký, không xa lì pháp bất thiện, vô ký. Trí nhất thiết trí chẳng phải pháp bù cõi dục, không xa lì pháp bù cõi dục, chẳng phải pháp bù cõi sắc, vô sắc, không xa lì pháp bù cõi sắc, vô sắc. Trí nhất thiết trí chẳng phải pháp thấy chỗ đoạn, không xa lì pháp thấy chỗ đoạn, chẳng phải pháp tu chỗ đoạn, không đoạn, không xa lì pháp tu chỗ đoạn, không đoạn. Trí nhất thiết trí chẳng phải pháp học, không xa lì pháp học, chẳng phải pháp không học, chẳng học chẳng không học, không xa lì pháp không học, chẳng học chẳng không học. Trí nhất thiết trí xa lì các tướng pháp như vậy nên không thể chấp thủ. Trí nhất thiết trí xa lì các tướng không có pháp có thể đắc, không sợ đắc nên không thể chấp thủ. Trí nhất thiết trí không phải có pháp, cũng không phải không pháp. Do nhân duyên không thể chấp thủ này nên Bồ Tát tu hành bố thí, thọ trì tỉnh giới, hồi hướng quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đề. Tuy cầu chính đắc trí nhất thiết trí nhưng không gọi là hồ trì giới cấm thủ. Nếu các Bồ Tát tu hành bố thí, thọ trì tỉnh giới, hồi hướng thanh văn, hoặc độc giác, chấp lấy tỉnh giới thì các Bồ Tát này mất Bồ Tát giới nên biết đó gọi là phạm giới Bồ Tát. Mãng từ tử hỏi xá lợi tử. Nếu các Bồ Tát tu hành bố thí, thọ trì tỉnh giới, hồi hướng bật thanh văn, hoặc độc giác, vi phạm giới Bồ Tát đã thọ. Các Bồ Tát này nếu có điều kiện có thể trở lại tỉnh giới không? Xá lợi tử đáp. Nếu Bồ Tát kia, hồi hướng bật thanh văn, độc giác rồi, chưa thấy thanh đế, chưa chứng thật tế, hoặc có điều kiện thì dễ có thể trở lại tỉnh giới. Nếu đã thấy thanh đế, chứng thật tế rồi, vì kiến sâu nặng thì khó có thể trở lại tỉnh giới. Mãng từ tử lại hỏi cụ thọ xá lợi tử. Nếu các Bồ Tát cầu chứng quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đề, không nên để cho họ chứng thật tế hay sao? Xá lợi tử đáp. Đúng vậy. Đúng vậy. Nếu các Bồ Tát cầu chứng quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đề, không nên để cho họ chứng nơi thật tế. Mãng từ tử hỏi. Do nhân duyên gì mà các Bồ Tát cầu chứng quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đề, không nên để cho họ chứng thật tế? Xá lợi tử đáp. Có các Bồ Tát cầu chứng quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đề, nếu mau làm cho vị ấy chứng thật tế, thì các Bồ Tát này hoặc được đủ nhân duyên, trú ở bậc Thanh Văn, hoặc độc giác, khó có thể làm cho họ khởi tâm trí nhất thiết, hoặc gặp lúc chánh Pháp như Lai không còn, không cần chứng đắc trí nhất thiết trí, bấy giờ liền chứng độc giác Bồ Đề, nhập vào vô dư y Niết Bàn, hoàn toàn không chứng quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đề. Do nhân duyên này, nếu các Bồ Tát cầu quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đề, không nên làm cho vị ấy mau chứng thật tế, cho đến chưa ngồi tòa Bồ Đề ví diệu, không nên làm cho vị ấy chứng thật tế, hoặc khi đã ngồi tòa Bồ Đề ví diệu, sắp chứng quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đề có thể làm cho họ chứng nơi thật tế, giúp trừ tất cả chiếu ngại để chứng đại Bồ Đề. Lại nữa, mãn tự tử. Nếu các Bồ Tát tu hành tịnh giới Ba-la-mật-đa, không nên thọ trì tịnh giới của Nhị Thưa. Vì tịnh giới kia không thể hộ trì trí nhất thiết trí, không hướng đến pháp tầm trí nhất thiết trí, không giữ gìn tịnh giới Ba-la-mật-đa của Bồ Tát, không viên mãn tịnh giới Ba-la-mật-đa của Bồ Tát. Lại nữa, mãn tự tử. Nếu các Bồ Tát khởi tâm phân biệt, giới hạn làm lợi ích cho hữu tình, tu hành bố thí, thọ trì tịnh giới, thì các Bồ Tát này không giữ gìn được tịnh giới Ba-la-mật-đa của Bồ Tát, không viên mãn tịnh giới Ba-la-mật-đa của Bồ Tát. Vì sao? Mãn tự tử. Vì tịnh giới Ba-la-mật-đa của Bồ Tát không có phân biệt, giới hạn. Nếu các Bồ Tát phát tâm không phân biệt, giới hạn làm lợi ích hữu tình, tu hành bố thí, thọ trì tịnh giới, thì các Bồ Tát này mới giữ gìn được tịnh giới Ba-la-mật-đa của Bồ Tát, cũng viên mãn tịnh giới Ba-la-mật-đa của Bồ Tát. Do nhân duyên đây, nên gọi các Bồ Tát này thành tự tịnh giới Bồ Tát. Mãn tự tử hỏi xá lợi tử. Sao gọi là Bồ Tát trì giới? Xá lợi tử đáp. Nếu các Bồ Tát tùy theo sự hành bố thí, tất cả đều hồi hướng quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đề, làm lợi ích lớn cho các hữu tình đến tận đời vị lai không gián đoạn, nên biết đó là Bồ Tát trì giới. Nếu các Bồ Tát tùy trải qua hàng hạ sa số đại kiếp, tu hành trì giới, làm cho được viên mãn, nhưng không hồi hướng quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đề, làm lợi ích lớn cho các hữu tình đến tận đời vị lai không gián đoạn, thì các Bồ Tát này không hội trì được tịnh giới Ba-la-mật-đa của Bồ Tát, không viên mãn tịnh giới Ba-la-mật-đa của Bồ Tát. Nếu các Bồ Tát tùy trải qua hàng hạ sa số đại kiếp, tu hành tịnh giới, làm cho được viên mãn nhưng hồi hướng tâm về thanh văn, độc giác thì các Bồ Tát này không hội trì được tịnh giới Ba-la-mật-đa của Bồ Tát, không viên mãn tịnh giới Ba-la-mật-đa của Bồ Tát. Nếu các Bồ Tát tùy không thọ trì tịnh giới của nhị thừa, nhưng không gọi là người phạm tịnh giới. Nếu các Bồ Tát hồi hướng về bật thanh văn, hoặc độc giác, tuy thọ trì nhiều tịnh giới của nhị thừa nhưng lại gọi là người phạm tịnh giới. Vì sao? Mãn tự tử Vì nếu các Bồ Tát hồi hướng về thanh văn, hoặc độc giác, nên biết đó là hành nơi phi sứ. Nói phi sứ tức là nhị thừa, chẳng phải chỗ hành sứ của Bồ Tát vậy. Mãn tự tử lại hỏi xá lợi tử. Sao gọi là Bồ Tát hành sứ? Các ý tương ứng với bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tỉnh lự, bác nhã-ba-la-mật-đa, nên biết đây là hành sứ của Bồ Tát. Lại nữa, mãn tự tử. Các ý tương ứng với pháp nội không, ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không, thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cánh không, vô tế không, tán không, vô biến dị không, bản tính không, tự tướng không, cộng tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tính không, tự tính không, vô tính tự tính không. Nên biết đây là hành sứ của Bồ Tát. Lại nữa, mãn tự tử. Các ý tương ứng với chân như pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly xanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tương nghị. Nên biết đây là hành sứ của Bồ Tát. Lại nữa, mãn tự tử. Các ý tương ứng với sự học bốn tỉnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Nên biết đây là hành sứ của Bồ Tát. Lại nữa, mãn tự tử. Các ý tương ứng với bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căng, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo. Nên biết đây là hành sứ của Bồ Tát. Lại nữa, mãn tự tử. Các ý tương ứng với sự học pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện. Nên biết đây là hành sứ của Bồ Tát. Lại nữa, mãn tự tử. Các ý tương ứng với sự học tám giải thoát, tám thắng sứ, chính định thứ lớp, mười biến sứ. Nên biết đây là hành sứ của Bồ Tát. Lại nữa, mãn tự tử. Các ý tương ứng với cực khỉ địa, ly cấu địa, pháp quan địa, dịm tuệ địa, cực ngang thắng địa, hiện tiền địa, viễn hành địa, bất động địa, thiện tuệ địa, pháp vân địa. Nên biết đây là hành sứ của Bồ Tát. Lại nữa, mãn tự tử. Các ý tương ứng với tất cả pháp môn Đà-La-Ni, tất cả pháp môn Tam-Ma-Địa. Nên biết đây là hành sứ của Bồ Tát. Lại nữa, mãn tự tử. Các ý tương ứng với năm loại mắt, sáu phép thần thông. Nên biết đây là hành sứ của Bồ Tát. Lại nữa, mãn tự tử. Các ý tương ứng với mười lực Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xã, mười tám pháp Phật bất cộng cho đến trí nhất thiết trí. Nên biết đây là hành sứ của Bồ Tát. Nếu các Bồ Tát an trụ tu hành chắc chắn nơi hành sứ này, nên biết đây là Bồ Tát trị giới. Lại nữa, mãn tự tử. Nếu các Bồ Tát tuy trải qua hàng hà sa số đại kiếp, ở tại gia hưởng thọ năm dục lạc thượng diệu, nhưng không phát khởi tâm hồi hướng về Bật Thanh Văn, độc giác. Nên biết các Bồ Tát này không gọi là phạm Bồ Tát giới. Vì sao? Mãn tự tử. Vì các Bồ Tát này ý thích tăng thường, không thối chuyển, biến hoại. Sao gọi là ý thích tăng thường? Nghĩa là quyết định cầu trí nhất thiết trí. Ví như có người đối với tài vật của người khác, thật tình không cướp đoạt, tuy bị cầm tù oan ủng trong một thời gian dài, nhưng tâm ý an lạc thường vui, không bị thối chuyển nản lòng. Tuy ở tù chung với người xấu, nhưng không có tâm trọng cướp tài vật của người khác, nên không gọi là giặc cướp. Bồ Tát cũng vậy, tuy ở tại gia dù trải qua hàng hạ sa số đại kiếp hưởng thọ năm dục lạc thượng diệu, nhưng ý thù thắng thường không thối chuyển, biến hoại, nghĩa là luôn cầu trí nhất thiết trí, chưa từng phát khởi tâm nhị thừa. Cho nên không gọi là phạm Bồ Tát giới. Nếu các Bồ Tát tuy trải qua hàng hạ sa số đại kiếp tu hành phạm hạnh, nhưng phát tâm hồi hướng về nhị thừa, nên biết không gọi là người trì tịnh giới. Vì sao? Mãn tự tử. Vì người kia bỏ tịnh giới Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đà, an trụ giới Thanh Văn, độc giác thừa. Nếu các Bồ Tát an trụ giới Thanh Văn, độc giác thừa, thì không gọi là Bồ Tát. Vì sao? Vì các Bồ Tát này xa liệt tịnh giới Ba-La-Mật-Đà, tâm không cầu trí nhất thiết trí, nhất định không chứng quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đề. Lại nữa, mãn tự tử. Nếu các Bồ Tát khởi tâm như vậy, ta nên tinh tấn dù trải qua bấy nhiêu kiếp trôi lăng trong vòng sanh tử, quyết định phát khởi tâm trí nhất thiết trí. Các Bồ Tát này do khởi tâm này nên không chứng đắc trí nhất thiết trí. Mãn tự tử liên hỏi cụ thọ xá lợi tử. Nếu tâm các Bồ Tát có phân biệt, giới hạn, ta siền năng tinh tấn, quyết định chứng đắc trí nhất thiết trí, phải trải qua bấy nhiêu kiếp. Tâm mong cầu như thế mắc phải lỗi gì mà không chứng đắc trí nhất thiết trí? Xá lợi tử đáp. Các Bồ Tát này nhằm chán sanh tử, mong cầu mau chứng Bồ Đề. Do tâm mong cầu nên có phân biệt, giới hạn. Do có phân biệt, giới hạn nên không thành thuộc thiện căng thù thắng. Do sợ sanh tử hoặc cầu quả thanh văn, độc giác thừa. Chẳng phải phân biệt, giới hạn mà lại làm lợi ích cho vô lượng hữu tình. Chẳng phải phân biệt, giới hạn mà làm viên mạng vô lượng Bố Thí Ba-la-mật-đa. Chẳng phải không viên mạng vô lượng Bố Thí Ba-la-mật-đa mà chứng đắc trí nhất thiết trí. Nếu tâm các Bồ Tát có phân biệt, giới hạn, giả sử có trải qua hàng hạ sa số đại kiếp, tu hành Bố Thí Ba-la-mật-đa nhưng cũng không viên mạng Bố Thí Ba-la-mật-đa. Bố Thí Ba-la-mật-đa của Bồ Tát không có bờ mé cho nên trí nhất thiết trí cũng không có bờ mé. Nếu Bồ Tát không viên mạng Bố Thí Ba-la-mật-đa mà chứng đắc trí nhất thiết trí thì không có điều này. Vì vậy, Bồ Tát mong cầu quả vị vô lượng chánh đẳng Bồ Đệ nhất định không nên khởi tâm phân biệt, giới hạn, mong cầu mau chứng đắc trí nhất thiết trí. Lại nữa, mạng tự tử. Nếu các Bồ Tát cầu chứng quả vị vô lượng chánh đẳng Bồ Đệ thì các Bồ Tát này quyết định không có tâm phân biệt, giới hạn tu hành Bố Thí cho đến Bát Nhã Ba-la-mật-đa. Từng giờ, từng giờ ở lâu trong sanh tử tu hành Bồ Tát. Từng lúc, từng lúc việc tu Bố Thí cho đến Bát Nhã Ba-la-mật-đa dần dần được thành thuộc khéo léo, có thể chứng đắc trí nhất thiết trí. Ví như vật bằng đất nung mới, đựng đầy nước sạch phơi giữa nắng. Suốt thời gian dài, nước thấm dần, thấm dần, như vậy vật ấy càng thêm bền chắc. Bồ Tát cũng vậy, từng giờ, từng giờ ở lâu trong sanh tử tu hành Bồ Tát. Từng lúc, từng lúc việc tu Bố Thí cho đến Bát Nhã Ba-la-mật-đa dần dần được thành thuộc khéo léo, có thể chứng đắc trí nhất thiết trí. Lại nữa, mãng tự tử, như bình sứ mới, đựng đầy bơ dầu, để qua thời gian lâu, cứ vậy, cứ vậy, bơ dầu thấm dần, thấm dần. Do đó nên bình sứ càng chắc, có thể chịu đựng được. Bồ Tát cũng vậy, từng giờ, từng giờ ở lâu trong sanh tử tu hành Bồ Tát. Từng lúc, từng lúc dần dần gặp được nhiều vị Phật và đệ tử Phật, tin tưởng cung kính, cúng dương. Từng giờ, từng giờ dần dần gặp được nhiều vị Phật và đệ tử Phật, tin tưởng cung kính, cúng dương. Từng lúc, từng lúc dần dần nhờ nhiều vị Phật và đệ tử Phật dạy dỗ, trao truyền. Từng giờ, từng giờ dần dần được nhiều vị Phật và đệ tử Phật dạy dỗ, trao truyền. Từng lúc, từng lúc dần dần được nghe thuyết bố thí, tỉnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tỉnh lự, bác nhã ba la mật đa. Từng giờ, từng giờ dần dần được nghe thuyết bố thí, tỉnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tỉnh lự, bác nhã ba la mật đa. Từng lúc, từng lúc dần dần có thể tu tập bố thí, tỉnh giới, an nhẫn, tỉnh tấn, tỉnh lự, bác nhã ba la mật đa. Từng giờ, từng giờ khéo tu tập bố thí, tỉnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tỉnh lự, bác nhã ba la mật đa. Từng lúc, từng lúc dần dần lại viên mạng bố thí, tỉnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tỉnh lự, bác nhã ba la mật đa. Từng giờ, từng giờ dần dần lại viên mạng bố thí, tỉnh giới, an nhẫn, tỉnh tấn, tỉnh lự, bác nhã ba la mật đa. Từng lúc, từng lúc dần dần được thân cận trí nhất thiết trí. Từng giờ, từng giờ dần dần được thân cận trí nhất thiết trí. Khi ấy, dần dần chấm dứt các chiếu ngại, chứng đắc quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề. Lại nữa, mãn tự tử. Các đại Bồ Tát từng giờ, từng giờ khởi tâm tương ưng với trí nhất thiết trí. Từng lúc, từng lúc không để tâm phan duyên với cảnh sát. Từng lúc, từng lúc bố thí, tỉnh giới, an nhẫn, tỉnh tấn, tỉnh lự, bác nhã ba la mật đa tiếp nối thấm nhường nơi tâm, dần dần được viên mạng. Do tâm liên tục được viên mạng, nên gọi là phát tâm đến trí nhất thiết. Tâm tương tục này không gián đoạn cho đến khi chứng đắc trí nhất thiết trí. Như bình chứa dầu bơ lâu ngày, như vậy hơi dầu thấm nhường khắp bình, không nhịn mùi của hơi khác bám vào. Đại Bồ-Tát cũng vậy, khởi tâm tương ưng với trí nhất thiết trí, tâm không bị cảnh sát sen tạp. Do không sen tạp nên bố thí, tỉnh giới, an nhẫn, tỉnh tấn, tỉnh lự, bác nhã ba la mật đa huân tập viên mạng. Các quân ma ác muốn rình tiền lỗi, chắc chắn không thể được. Vì sao? Mạng tự tử. Vì nếu đối cảnh đây mà ma rình tiền lỗi, thì các Bồ-Tát liên khởi tâm tương ưng với trí nhất thiết trí. Do đó ác ma chẳng làm gì được. Bồ-Tát cũng vậy, từng giờ, từng giờ ở lâu trong sanh tử tu hành bố thí cho đến bác nhã ba la mật đa. Từng lúc, từng lúc dần dần phụng thờ nhiều vị Phật và các đệ tử. Từng giờ, từng giờ dần dần phụng thờ nhiều vị Phật và các đệ tử. Từng lúc, từng lúc nghe thuyết bố thí cho đến bác nhã ba la mật đa. Từng giờ, từng giờ nghe thuyết bố thí cho đến bác nhã ba la mật đa. Từng giờ, từng giờ nghe thuyết bố thí cho đến bác nhã ba la mật đa. Từng lúc, từng lúc siêng năng tinh tấn, suy nghĩ đúng lý sự thuyết bố thí cho đến bác nhã ba la mật đa. Từng giờ, từng giờ siêng năng tinh tấn, suy nghĩ đúng lý sự thuyết bố thí cho đến bác nhã ba la mật đa. Từng lúc, từng lúc siêng năng tinh tấn, tu tập không điên đảo về sự thuyết bố thí cho đến bác nhã ba la mật đa. Từng giờ, từng giờ siêng năng tinh tấn, tu tập không điên đảo về sự thuyết bố thí cho đến bác nhã ba la mật đa. Từng lúc, từng lúc tương tục nơi tâm, bố thí, tỉnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tỉnh lự, bác nhã ba la mật đa dần dần được viên mãng. Từng giờ, từng giờ tương tục nơi tâm, bố thí, tỉnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tỉnh lự, bác nhã ba la mật đa dần dần được viên mãng. Khi ấy, dần dần thân cận trí nhất thiết trí. Do đó mau chứng đắc quả vị vô thường chánh đẳng bồ đệ, làm lợi ích lớn cho các hữu tình. Lại nữa, mãng từ tử. Nếu các Bồ Tát muốn khuyến hóa, hướng dẫn người khác thọ trì tỉnh giới. Các Bồ Tát này trước hết phải từ khởi tâm, tâm sở tương ưng với tỉnh giới, sau đó mới khuyến hóa, hướng dẫn người khác thọ trì tỉnh giới. Ả khuyến hóa, hướng dẫn người khác thọ trì tỉnh giới rồi, lại làm cho họ hồi hướng về trí nhất thiết trí. Bồ Tát như vậy là tự tu thiện căng, hồi hướng sự cầu trí nhất thiết trí. Lại khuyến hóa, hướng dẫn các hữu tình khác khởi tâm thanh tịnh thọ trì tỉnh giới, thọ trì tỉnh giới rồi lại làm cho họ hồi hướng trí nhất thiết trí. Mới có thể gọi là bậc thầy khéo léo giáo hóa các thiện nam, thiện nữ v.v. Nếu các Bồ Tát dạy dỗ, giáo hún bậc thanh văn thừa, khiến họ siêng năng tu học tỉnh giới Ba-la-mật-đa của Bồ Tát, hồi hướng cầu trí nhất thiết trí, thì các Bồ Tát này hơn bậc thanh văn thừa. Nếu bậc thanh văn mà dạy dỗ, giáo hún vị Bồ Tát thừa, khiến vị ấy siêng năng tu học tỉnh giới Ba-la-mật-đa của Bồ Tát, hồi hướng cầu trí nhất thiết trí, thì bậc thanh văn này không hơn vị Bồ Tát, mà là Bồ Tát hơn vị kia. Như có người nam cống người vàng rồng đi đến nước xa xôi khác, thì dung mạo ánh sáng người vàng này hơn người nam kia. Như vậy, giả sử có hàng hà sa số bậc thanh văn thừa dạy dỗ, giáo hún vị Bồ Tát thừa, làm cho vị ấy siêng năng tu học tỉnh giới Ba-la-mật-đa của Bồ Tát, rồi Bồ Tát hồi hướng cầu đến trí nhất thiết trí, thì một vị Bồ Tát này hơn tất cả bậc thanh văn kia. Lại cũng như người nam cống người thủy tinh đến nước xa xôi khác, dung mạo ánh sáng của người thủy tinh này hơn người nam kia. Cũng vậy, có hàng hà sa số thanh văn thừa ở ngàn đại thiên thế giới dạy dỗ, giáo hún vị Bồ Tát, làm cho vị ấy siêng năng tu học tỉnh giới Ba-la-mật-đa của Bồ Tát, rồi Bồ Tát hồi hướng cầu đến trí nhất thiết trí, thì một vị Bồ Tát này hơn tất cả bậc thanh văn kia. Vì sao? Mãn từ tử. Vì các bậc thanh văn từng giờ, từng giờ dạy dỗ, giáo hún một vị Bồ Tát, thì từng lúc, từng lúc vị Bồ Tát này hơn hẳn tất cả bậc thanh văn. Giả sử trải qua hàng hà sa số kiếp trụ ở bậc thanh văn, dạy dỗ, giáo hún một vị Bồ Tát, làm cho vị ấy siêng năng tu học tỉnh giới Ba-la-mật-đa của Bồ Tát, rồi Bồ Tát hồi hướng cầu đến trí nhất thiết trí, thì thiện căng công đức của một vị Bồ Tát này ngày đêm được tăng trưởng. Lại nữa, mãn từ tử. Ví như vàng đồng được tinh luyện nhiều lần thì màu sắc của nó ngày càng sáng. Bồ Tát cũng vậy, từng giờ, từng giờ các chúng thanh văn dạy dỗ, giáo hún, làm cho vị ấy siêng năng tu học tỉnh giới Ba-la-mật-đa của Bồ Tát, rồi Bồ Tát hồi hướng cầu đến trí nhất thiết trí. Từng lúc, từng lúc tỉnh giới Ba-la-mật-đa của Bồ Tát càng được trông sáng. Từng giờ, từng giờ tỉnh giới Ba-la-mật-đa của Bồ Tát càng được trông sáng. Từng lúc, từng lúc công đức của Bồ Tát càng hơn công đức của tất cả thanh văn. Bởi vì công đức của thanh văn chỉ hồi hướng niết bàn, không cầu hướng đến trí nhất thiết trí. Lại nữa, mãn tự tử. Như Ngọc Lưu Ly, từng giờ, từng giờ được người thợ mài dũa. Từng lúc, từng lúc ánh sáng càng trông suốt. Bồ Tát cũng vậy, từng giờ, từng giờ các chúng thanh văn dạy dỗ, giáo hún, khiến cho vị ấy siêng năng tu học tỉnh giới Ba-la-mật-đa của Bồ Tát, rồi Bồ Tát hồi hướng cầu đến trí nhất thiết trí. Từng lúc, từng lúc tỉnh giới Ba-la-mật-đa của Bồ Tát được trông sáng. Từng giờ, từng giờ tỉnh giới Ba-la-mật-đa của Bồ Tát được trông sáng. Từng lúc, từng lúc công đức của Bồ Tát càng hơn công đức của tất cả thanh văn thừa. Bởi vì công đức của thanh văn chỉ hồi hướng niết bàn, không cầu hướng đến trí nhất thiết trí. Lại nữa, mãn tự tử. Như người hòa sĩ giỏi, dùng các màu vẽ hình người. Trước tiên lấy một màu vẽ làm chuẩn, sau đó tô lắp nhiều màu khác lên. Từng giờ, từng giờ dùng các màu dần dần tô lắp vào, từng lúc, từng lúc dung màu hình sách càng đẹp hơn họa sĩ kia gấp trăm ngàn lần. Bồ Tát cũng vậy, từng giờ, từng giờ các chúng thanh văn dạy dỗ, giáo huấn, khiến cho vị ấy thiên năng tu học tỉnh giới Ba-la-mật-đa của Bồ Tát, rồi Bồ Tát hồi hướng cầu đến trí nhất thiết trí. Từng lúc, từng lúc tỉnh giới Ba-la-mật-đa của Bồ Tát được trông sáng. Từng giờ, từng giờ tỉnh giới Ba-la-mật-đa của Bồ Tát được trông sáng. Từng lúc, từng lúc công đức của Bồ Tát hơn công đức của tất cả thanh văn. Bởi vì công đức của thanh văn chỉ hồi hướng niết bạn, không cầu hướng đến trí nhất thiết trí. Nhưng Bồ Tát này nhờ sự dạy dỗ, giáo huấn của các thanh văn, nên các công đức thiện căng của sự tu hành ngày đêm được tăng trưởng. Lại nữa, mãn từ tử. Như có người trồng cây tùy lúc, tưới, bóng, chăm sóc, sửa sang. Từng giờ, từng giờ tưới, bóng, chăm sóc, sửa sang cây đó. Từng lúc, từng lúc cây đó lớn nhanh, dần dần cao lớn. Bồ Tát cũng vậy, được vô lượng thanh văn dạy dỗ, giáo huấn, làm cho siêng năng tu học tỉnh giới Ba-la-mật-đa của Bồ Tát, rồi Bồ Tát hồi hướng cầu đến trí nhất thiết trí. Bồ Tát này, từng giờ, từng giờ được vô lượng thanh văn dạy dỗ, giáo huấn, làm cho siêng năng tu học tỉnh giới Ba-la-mật-đa của Bồ Tát, rồi Bồ Tát hồi hướng cầu đến trí nhất thiết trí. Từng lúc, từng lúc tỉnh giới Ba-la-mật-đa của Bồ Tát lần lượt được tăng trưởng. Từng giờ, từng giờ tỉnh giới Ba-la-mật-đa của Bồ Tát lần lượt được tăng trưởng. Từng lúc, từng lúc Bồ Tát hơn hẳn tất cả thanh văn, độc giác. Tỉnh giới Ba-la-mật-đa của Bồ Tát càng được trông sáng, càng được hương thành, dần dần thân cận với bổn nguyện cầu trí nhất thiết trí. Bởi vì Bồ Tát này hơn hẳn thanh văn, độc giác. Lại nữa, mãn tự tử. Ví như có người đem lửa nhỏ đốt cây cỏ khô. Từng giờ, từng giờ lửa bén vào cây cỏ. Từng lúc, từng lúc lửa dần dần bốc cháy lan rộng. Từng giờ, từng giờ lửa dần dần bốc cháy lan rộng. Từng lúc, từng lúc ngọn lửa phát triển càng lớn, lần lần chiếu sáng nhiều do tuần, rồi đến hơn trăm, hơn ngàn, cho đến vô lượng do tuần. Bồ Tát cũng vậy, được vô lượng thanh văn dạy dỗ, giáo húng, làm cho siêng năng tu học tỉnh giới Ba-la-mật-đa của Bồ Tát, rồi Bồ Tát hồi hướng cầu đến trí nhất thiết trí. Từng giờ, từng giờ, Bồ Tát này được vô lượng thanh văn dạy dỗ, giáo húng, làm cho siêng năng tu học tỉnh giới Ba-la-mật-đa của Bồ Tát, rồi Bồ Tát hồi hướng cầu đến trí nhất thiết trí. Từng lúc, từng lúc tỉnh giới Ba-la-mật-đa của Bồ Tát dần dần được trong sáng hưng thành. Từng giờ, từng giờ tỉnh giới Ba-la-mật-đa của Bồ Tát dần dần được trong sáng hưng thành. Khi ấy, công đức của Bồ Tát hơn vô lượng công đức dạy dỗ, giáo húng của thanh văn thừa. Bởi vì công đức của thanh văn chỉ hồi hướng miết bàn, không cầu hướng đến trí nhất thiết trí. Lại nữa, mãn tự tử. Ví như có người đào mỏ lấy vàng, lấy rồi đem bán sẽ được giá trị quý hơn gấp trăm ngàn lần người bán kia. Bồ Tát cũng vậy, từng giờ, từng giờ, được vô lượng thanh văn dạy dỗ, giáo húng, làm cho siêng năng tu học tỉnh giới Ba-la-mật-đa của Bồ Tát, rồi Bồ Tát hồi hướng cầu đến trí nhất thiết trí. Từng lúc, từng lúc tỉnh giới Ba-la-mật-đa của Bồ Tát hơn gấp trăm ngàn lần công đức của thanh văn kia. Vì công đức kia chỉ hồi hướng miết bàn, không cầu hướng đến trí nhất thiết trí. Tỉnh giới Ba-la-mật-đa của Bồ Tát quyết định cầu trí nhất thiết trí, làm lợi ích lớn cho các hữu tình. Bây giờ, mãn tự tử nói với xá lợi tử. Bồ Tát thành tựu diệu pháp động lớn. Nghĩa là các Bồ Tát được bậc thanh văn dạy dỗ, giáo húng, làm cho suy năng tu học tỉnh giới Ba-la-mật-đa của Bồ Tát, rồi Bồ Tát hồi hướng cầu đến trí nhất thiết trí. Các Bồ Tát này hơn bậc thanh văn thừa. Nếu bậc thanh văn dạy dỗ, giáo húng vị Bồ Tát thừa làm cho suy năng tu học tỉnh giới Ba-la-mật-đa của Bồ Tát, rồi Bồ Tát hồi hướng cầu đến trí nhất thiết trí, thì bậc thanh văn này không hơn vị Bồ Tát kia. Chỉ có Bồ Tát hơn thanh văn kia. Xá lợi tử liền đáp với cụ thọ mãn tư tử. Đúng vậy. Đúng vậy. Bồ Tát thanh tự diệu pháp động lớn hơn hẳn độc giác và các thanh văn.

Listen Next

Other Creators