Details
Nothing to say, yet
Big christmas sale
Premium Access 35% OFF
Nothing to say, yet
Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa Tập 24 Quyển 600 Phẩm Bát Nhã Ba La Mật Đa 08 Lại nữa, này thiện dũng mảnh! Nếu các Bồ Tát tu hành Bát Nhã Ba La Mật Đa thì không hành sát hiển bày hay không hiển bày? Không hành thọ, tưởng, hành, thức hiển bày hay không hiển bày? Không hành nhãn hiển bày hay không hiển bày? Không hành nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý hiển bày hay không hiển bày? Không hành sát hiển bày hay không hiển bày? Không hành thanh, hương, vị, súc, phát hiển bày hay không hiển bày? Không hành nhãn thức hiển bày hay không hiển bày? Không hành nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý thức hiển bày hay không hiển bày? Không hành sát tịch tỉnh hay không tịch tỉnh? Không hành thọ, tưởng, hành, thức tịch tỉnh hay không tịch tỉnh? Không hành nhãn tịch tỉnh hay không tịch tỉnh? Không hành nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý tịch tỉnh hay không tịch tỉnh? Không hành sát tịch tỉnh hay không tịch tỉnh? Không hành thanh, hương, vị, súc, phát tịch tỉnh hay không tịch tỉnh? Không hành nhãn thức tịch tỉnh hay không tịch tỉnh? Không hành nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý thức tịch tỉnh hay không tịch tỉnh? Không hành bản tánh của sát thanh tỉnh hay không thanh tỉnh? Không hành bản tánh của thọ, tưởng, hành, thức thanh tịnh hay không thanh tịnh? Không hành bản tánh của nhãn thanh tịnh hay không thanh tịnh? Không hành bản tánh của nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý thanh tịnh hay không thanh tịnh? Không hành bản tánh của sát thanh tịnh hay không thanh tịnh? Không hành bản tánh của thanh, hương, vị, súc, phát thanh tịnh hay không thanh tịnh? Không hành bản tánh của nhãn thức thanh tịnh hay không thanh tịnh? Không hành bản tánh của nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý thức thanh tịnh hay không thanh tịnh? Không hành bản tánh của sát hiển bày hay không hiển bày? Không hành bản tánh của thọ, tưởng, hành, thức hiển bày hay không hiển bày? Không hành bản tánh của nhãn hiển bày hay không hiển bày? Không hành bản tánh của nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý hiển bày hay không hiển bày? Không hành bản tánh của sát hiển bày hay không hiển bày? Không hành bản tánh của thanh, hương, vị, suất, pháp hiển bày hay không hiển bày? Không hành bản tánh của nhãn thức hiển bày hay không hiển bày? Không hành bản tánh của nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý thức hiển bày hay không hiển bày? Không hành bản tánh của sát tịnh tịnh hay không tịnh tịnh? Không hành bản tánh của thọ, tưởng, hành, thức tịnh tịnh hay không tịnh tịnh? Không hành bản tánh của nhãn tịnh tịnh hay không tịnh tịnh? Không hành bản tánh của nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý tịnh tịnh hay không tịnh tịnh? Không hành bản tánh của sát tịnh tịnh hay không tịnh tịnh? Không hành bản tánh của thanh, hương, vị, suất, pháp tịnh tịnh hay không tịnh tịnh? Không hành bản tánh của nhãn thức tịnh tịnh hay không tịnh tịnh? Không hành bản tánh của nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý thức tịnh tịnh hay không tịnh tịnh? Không hành bản tánh của sát viễn ly hay không viễn ly? Không hành bản tánh của thọ, tưởng, hành, thức viễn ly hay không viễn ly? Không hành bản tánh của nhãn viễn ly hay không viễn ly? Không hành bản tánh của nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý viễn ly hay không viễn ly? Không hành bản tánh của sát viễn ly hay không viễn ly? Không hành bản tánh của thanh, hương, vị, suất, pháp viễn ly hay không viễn ly? Không hành bản tánh của nhãn thức viễn ly hay không viễn ly? Không hành bản tánh của nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý thức viễn ly hay không viễn ly? Không hành bản tánh của sát thuộc quá khứ, vị lai, hiện tại là thanh tịnh hay không thanh tịnh, hiển bày hay không hiển bày, tịnh tịnh hay không tịnh tịnh, viễn ly hay không viễn ly? Không hành bản tánh của thọ, tưởng, hành, thức thuộc quá khứ, vị lai, hiện tại là thanh tịnh hay không thanh tịnh, hiển bày hay không hiển bày, tịnh tịnh hay không tịnh tịnh, viễn ly hay không viễn ly? Không hành bản tánh của nhãn thuộc quá khứ, vị lai, hiện tại là thanh tịnh hay không thanh tịnh, hiển bày hay không hiển bày, tịnh tịnh hay không tịnh tịnh, viễn ly hay không viễn ly? Không hành bản tánh của nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý thuộc quá khứ, vị lai, hiện tại là thanh tịnh hay không thanh tịnh, hiển bày hay không hiển bày, tịnh tịnh hay không tịnh tịnh, viễn ly hay không viễn ly? Không hành bản tánh của sắc thuộc quá khứ, vị lai, hiện tại là thanh tịnh hay không thanh tịnh, hiển bày hay không hiển bày, tịnh tịnh hay không tịnh tịnh, viễn ly hay không viễn ly? Không hành bản tánh của thanh, hương, vị, súc, pháp thuộc quá khứ, vị lai, hiện tại là thanh tịnh hay không thanh tịnh, hiển bày hay không hiển bày, tịnh tịnh hay không tịnh tịnh, viễn ly hay không viễn ly? Không hành bản tánh của nhãn thức thuộc quá khứ, vị lai, hiện tại là thanh tịnh hay không thanh tịnh, hiển bày hay không hiển bày, tịnh tịnh hay không tịnh tịnh, viễn ly hay không viễn ly? Không hành bản tánh của nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý thức thuộc quá khứ, vị lai, hiện tại là thanh tịnh hay không thanh tịnh, hiển bày hay không hiển bày, tịnh tịnh hay không tịnh tịnh, viễn ly hay không viễn ly? Này thiện dũng mãnh! Nếu các Bồ Tát hành được như vậy thì mau viên mạng pháp trí nhất thiết. Lại nữa, này thiện dũng mãnh! Các Bồ Tát tu hành bát nhã ba la mật đa không nương tự vào sắc. Không nương tự vào thọ, tưởng, hành, thức. Không nương tự vào nhãn. Không nương tự vào nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý. Không nương tự vào sắc. Không nương tự vào thanh, hương, vị, xúc, pháp. Không nương tự vào nhãn thức. Không nương tự vào nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý thức. Cũng không nương tự vào thanh tịnh của sắc. Không nương tự vào thanh tịnh của thọ, tưởng, hành, thức. Không nương tự vào thanh tịnh của nhãn. Không nương tự vào thanh tịnh của nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý. Không nương tự vào thanh tịnh của sắc. Không nương tự vào thanh tịnh của thanh, hương, vị, xúc, pháp. Không nương tự vào thanh tịnh của nhãn thức. Không nương tự vào thanh tịnh của nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý thức. Không nương tự vào duyên thanh tịnh của sắc. Không nương tự vào duyên thanh tịnh của thọ, tưởng, hành, thức. Không nương tự vào duyên thanh tịnh của nhãn. Không nương tự vào duyên thanh tịnh của nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý. Không nương tự vào duyên thanh tịnh của sắc. Không nương tự vào duyên thanh tịnh của thanh, hương, vị, xúc, pháp. Không nương tự vào duyên thanh tịnh của nhãn thức. Không nương tự vào duyên thanh tịnh của nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý thức. Lại nữa, này thiện dũng mạnh. Các Bồ Tát tu hành bát nhã ba la mật đa không chấp trước sắc. Không chấp trước thọ, tưởng, hành, thức. Không chấp trước nhãn. Không chấp trước nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý. Không chấp trước sắc. Không chấp trước thanh, hương, vị, xúc, pháp. Không chấp trước nhãn thức. Không chấp trước nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý thức. Không chấp trước thanh tịnh của sắc. Không chấp trước thanh tịnh của thọ, tưởng, hành, thức. Không chấp trước thanh tịnh của nhãn. Không chấp trước thanh tịnh của nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý. Không chấp trước thanh tịnh của sắc. Không chấp trước thanh tịnh của thanh, hương, vị, xúc, pháp. Không chấp trước thanh tịnh của nhãn thức. Không chấp trước thanh tịnh của nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý thức. Không chấp trước thanh tịnh của sắc. Không chấp trước thanh tịnh của thọ, tưởng, hành, thức. Không chấp trước thanh tịnh của nhãn. Không chấp trước thanh tịnh của nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý. Không chấp trước thanh tịnh của sắc. Không chấp trước thanh tịnh của thanh, hương, vị, xúc, pháp. Không chấp trước thanh tịnh của nhãn thức. Không chấp trước thanh tịnh của nhãn thức. Không chấp trước thanh tịnh của nhãn thức. Không chấp trước thanh tịnh của nhãn thức. Không chấp trước thanh tịnh của nhãn thức. Không chấp trước thanh tịnh của nhãn thức. Không chấp trước thanh tịnh của nhãn thức. Không chấp trước thanh tịnh của nhãn thức. Không chấp trước thanh tịnh của nhãn thức. Không chấp trước thanh tịnh của nhãn thức. Không chấp trước thanh tịnh của nhãn thức. Không chấp trước thanh tịnh của nhãn thức. Không chấp trước thanh tịnh của nhãn thức. Không chấp trước thanh tịnh của nhãn thức. Không chấp trước thanh tịnh của nhã Nếu các Bồ Tát hành được như vậy thì gần gũi được trí kiến vô trước, vô ngại ở quá khứ, vị lai và hiện tại, cũng gần gũi như lai chỉ dậy, truyền trao hướng dẫn, cũng gần gũi được trí kiến vô trước, vô ngại ở quá khứ, vị lai và hiện tại. Các vị ấy chắc chắn sẽ được thọ ký, này thiện dũng mãnh. Nếu các Bồ Tát hành được như vậy thì mau chín tất cả sự thanh tịnh Pháp Phật, mau chín đắc sự thanh tịnh Cõi Phật, mau tiếp nhận sự viên mãn của Thanh Văn, mau tiếp nhận sự viên mãn của Bồ Tát. Này thiện dũng mãnh! Các Bồ Tát hành như vậy thì không trụ vào sắc, không trụ vào thọ, tưởng, hành, thức. Không trụ vào nhãn, không trụ vào nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý, không trụ vào sắc, không trụ vào thanh, hương, vị, xuất, pháp. Không trụ vào nhãn thức, không trụ vào nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý thức. Không trụ vào danh sắc, không trụ vào điên đảo, tà kiến, truyền cái, ái hành, không trụ cõi dục, sắc và vô sắc, không trụ vào hữu tình giới, pháp giới, không trụ vào địa, thủy, hỏa, phong, không vào thức giới, không trụ vào ngã, hữu tình, mạng sống, sự sanh, sự nuôi, trưởng thành, người, ý sanh, tuổi trẻ, người làm, người nhận, người biết, người thấy và các tưởng kia, không trụ vào đoạn, thường, không trụ vào tạp nhiễm, thanh tịnh, không trụ vào duyên khởi, không trụ vào bố thí, tham lam, giữ, giới, phạm giới, an nhẫn, sân dận, tinh tấn, giải đải, tỉnh lự, tán loạn, dịu tuệ, ác tuệ, không trụ vào niệm trụ, chánh đoạn, thần túc, căng, lực, giác chi, đạo chi, không trụ đoạn điên đảo v, v, không trụ vào tỉnh lự, giải thoát, đẳng trì, đẳng trí, không trụ vào minh và giải thoát, giải thoát trí kiến, không trụ vào trí tận, trí vô sanh, trí vô tạo tác và trí vô trước, không trụ vào thiền chỉ, thiền quán, không trụ vào vô lượng thần thông, không trụ vào khổ, tập, diệt, đạo, không trụ vào địa vị của phạm phu, thanh văn, độc giác, Bồ Tát và Phật, không trụ vào pháp của phạm phu, thanh văn, độc giác, Bồ Tát và Phật, không trụ vào sanh tử, niết bàn, không trụ vào trí lực, vô úy v, v của Phật, không trụ vào trí kiến của quá khứ, vị lai, hiện tại, không trụ vào sự viên mãn của cõi Phật, không trụ vào sự viên mãn của chúng thanh văn, không trụ vào sự viên mãn của chúng Bồ Tát. Vì sao? Này thiện dũng mãnh! Vì tất cả pháp không thể trụ! Này thiện dũng mãnh! Vì tất cả pháp chẳng có ý nghĩa để trụ! Vì sao? Vì tất cả pháp đều không nắm giữ, do không nắm giữ nên không thể trụ! Này thiện dũng mãnh! Nếu tất cả pháp có thể trụ, thì có thể thị hiện đây là pháp có thể nắm giữ, đây là pháp thường trụ. Như lai cũng có thể an trụ vào các pháp, thì hiện ra các pháp, đây là pháp có thể nắm giữ, đây là pháp có thể tích tập. Này thiện dũng mãnh! Vì tất cả pháp không thể an trụ, không thể nắm giữ, cũng không thể tích tập, cho nên không có pháp nào là thường trụ. Do đó mà như lai không an trụ vào pháp nào, cũng không thể hiện đây là pháp có thể nắm giữ, hay đây là pháp có thể tích tập. Này thiện dũng mãnh! Không có một chút pháp nào có thể thật sanh cả. Vì không có một chút pháp nào thật sanh, nên hoàn toàn không có chỗ trụ, do đó mà nói các pháp không có ý nghĩa trụ. Này thiện dũng mãnh! Lấy sự không chỗ trụ và có thể trụ làm phương tiện, nên nói tất cả các pháp hoàn toàn không có chỗ trụ. Này thiện dũng mãnh! Không có một chút pháp nào có thể nói trụ cả. Cũng như bốn sông lớn đều bắt nguồn từ ao vô nhiệt chảy ra. Khi chưa vào biển lớn thì nó hoàn toàn chẳng có ý nghĩa trụ. Các pháp cũng vậy, cho đến không tạo và các hành chưa tận thì hoàn toàn không có ý nghĩa an trụ. Này thiện dũng mãnh! Không tạo, không hành nghĩa là trong đây không có chỗ trụ, không trụ và không có sự trở ngại, tất cả đều dựa vào thế tục mà nói, chứ thật ra không có trụ và không có sự trở ngại, không có sự cứu cánh, cũng không phải không trụ. Này thiện dũng mãnh! Không tạo, không hành là dựa vào thế tục mà nói, cũng như những gì hữu tình thấy ở thế gian đều chẳng thật có trụ, hoặc có sự trở ngại hay có sự cứu cánh, cũng không phải không trụ, chẳng phải không tạo, không hành, có thật trụ. Cho nên có thể cho rằng, đường thế tục mà nói tất cả Pháp đều có nghĩa vô trụ. Này thiện dũng mãnh! Chúng đại Bồ Tát như vậy chỉ dựa vào tất cả Pháp vô trụ làm phương tiện, để tu hành bác nhã Balamudda. Này thiện dũng mãnh! Nếu các Bồ Tát hành như vậy thì mau viên mãng Pháp trí nhất thiết, gần quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề, mau an tọa tòa bồ đề ví diệu, mau chính đắc trí nhất thiết trí, mau viên mãng trí kiến của ba đời, mau viên mãng dự trí, biết rõ tâm hành sai khác của tất cả hữu tình. Này thiện dũng mãnh! Nếu các chúng đại Bồ Tát muốn làm lợi ích cho các tất cả hữu tình, muốn lấy tài của đệ bố thí cho tất cả hữu tình được đầy đủ, muốn dùng Pháp bố thí cho tất cả hữu tình để họ mãn nguyện, muốn phá vỡ vỏ trứng vô minh cho tất cả hữu tình, muốn trao đại trí, Phật trí cho tất cả hữu tình, muốn thương xót khắp tất cả hữu tình, muốn làm lợi ích an lạc cho khắp tất cả hữu tình, muốn giúp tất cả hữu tình đầy đủ tài thí và Pháp thí, muốn giúp cho tất cả hữu tình đầy đủ giới thanh tịnh, muốn giúp cho tất cả hữu tình đầy đủ an nhẫn hoà nhã, muốn giúp cho tất cả hữu tình đầy đủ sự tinh tấn võng mạnh, muốn giúp cho tất cả hữu tình đầy đủ tỉnh lựu trong sáng, muốn giúp cho tất cả hữu tình đầy đủ trí tuệ vi diệu, muốn giúp cho tất cả hữu tình đầy đủ giải thoát cứu tránh, muốn giúp cho tất cả hữu tình đầy đủ trí kiến giải thoát, muốn giúp cho tất cả hữu tình đều sanh vào các cõi lành, muốn giúp tất cả hữu tình đầy đủ minh và giải thoát, muốn giúp cho tất cả hữu tình đầy đủ niết bàn trốt tráo, muốn giúp tất cả hữu tình đầy đủ diệu Pháp của chư Phật, muốn giúp tất cả hữu tình đầy đủ sự viên mạng các công đức, muốn chuyển Pháp luôn vô thượng vi diệu mà tất cả thế gian, sa môn, phàm chí, trời, mà, ngoài đạo đều không thể chuyển Pháp luôn như vậy, muốn giảng nói diệu Pháp ở thế gian, muốn như thật thọ ký địa vị chư Phật, muốn như thật thọ ký địa vị Bồ Tát, muốn như thật thọ ký địa vị độc giác, muốn như thật thọ ký địa vị Thanh Văn và Muốn biết bản nguyện căng lành của các loài hữu tình, thì nên học Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa-Sâu-Xa như vậy, hãy giỏng mảnh tinh tấn đừng bao giờ để gián đoạn và hãy nương vào Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa-Sâu-Xa mà tinh tấn siêng năng tu học để không bị tham luyến. Này Thiện Dũng Mảnh! Ta hoàn toàn không thấy các Pháp khác có thể làm cho Bồ Tát mau viên mãn sự cầu diệu Pháp vô thường của chư Phật, giống như Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa-Sâu-Xa đã nói ở đây. Nếu các Bồ Tát an trụ Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa-Sâu-Xa như vậy và tinh tấn siêng năng tu học không bao giờ tạm bỏ, thì sẽ mau viên mãn Pháp trí nhất thiết. Này Thiện Dũng Mảnh! Nếu các Bồ Tát tu hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa đến rốt tráo, thì các Bồ Tát ấy gần đến quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đề, chắc chắn không nghi ngờ gì nữa. Này Thiện Dũng Mảnh! Nếu Thiện Nam, Tính Nữ V.V. nghe Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa này mà hoan hỷ tính họ, thật tâm trí thành thì ta nói những người này có thể đạt đến quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đề, vì thiện căng của họ rất thù thắng, mau đạt đến kiếu cánh. Và nhờ giữ gìn căng lành mà các Thiện Nam, Tính Nữ V.V. ấy nhất định tích tập được tư lương của đại tuệ. Này Thiện Dũng Mảnh! Nếu các Bồ Tát nắm giữ phương tiện thiện xảo Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa sâu xa như vậy, tương tương với giáo pháp ấy, thì các Bồ Tát này dù hiện tại không được Phật thọ ký, nhưng phải biết vị này cũng gần được Phật thọ ký, hoặc không bao lâu nữa sẽ được Phật thọ ký trong hiện tại. Này Thiện Dũng Mảnh! Ví như có người tinh tấn thọ học mười nghiệp đạo thiện đã đạt đến kiếu cánh, nên biết căng lành của người đó đã được thành thục, gần được sanh về Bắc Câu Lô Châu. Cũng vậy, Bồ Tát nào nắm giữ Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa sâu xa này, thì nên biết vị ấy đã gần quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đề như sở cầu, chắc chắn không nghi ngờ gì nữa. Này Thiện Dũng Mảnh! Ví như có người thích làm việc bố thí, đối với cụ báo họ không hề tham tiếc, cũng thường lấy bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự để giáo hóa các hữu tình, giúp đỡ hữu tình giữ giới tu hành nhẫn nhục và đánh đổ tâm kiêu mạng. Khi tu các hành đạt đến kiếu cánh như vậy thì họ được nhiều cu cải và sanh vào dòng tộc cao quý. Cũng vậy, Bồ Tát nào nắm giữ Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa sâu xa này, thì nên biết vị ấy đã gần đến địa vị bất thối chuyển. Này Thiện Dũng Mảnh! Ví như có người thích tu đầy đủ bố thí, trì giới, an nhẫn, từ bi thương xót hữu tình và khuyên họ trì tịnh giới, để có thể tạo tác chiêu cảm nghiệt tăng thường, thì nên biết người ấy mau đạt được địa vị chuyển Luân Vương. Cũng vậy, Bồ Tát nào nắm giữ Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa sâu xa này, thì nên biết vị ấy sẽ mau ngồi tòa Bồ Đề Ví Diệu. Này Thiện Dũng Mảnh! Ví như chuyển Luân Vương sắp lên ngôi cao, vào ngày 15 nửa tháng có trăng, tắm rửa thọ chai rồi lên đại điện, ngồi tòa sư tử và mặt hướng về phương Đông. Từ trên không có đại Luân Báu, xe Báu, đến thì nên biết vị ấy đã nhận ngôi vị chuyển Luân và không bao lâu vị ấy sẽ được đầy đủ bảy Báu. Cũng vậy, Bồ Tát nào nắm giữ Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa sâu xa này, thì nên biết vị ấy sẽ mau đạt được trí nhất thiết trí. Này Thiện Dũng Mảnh! Ví như loài hữu tình thành tựu căng lành thu thắng, thích tu hành hành thanh bạch, tin hiểu sâu sắc, nhằm chán sự tai hoạn về thân người, đầy đủ giới thanh tịnh, thích phục dịch việc của chúng tăng, tâm vị ấy luôn luôn nghĩ đến sanh thiên và che chở bảo hộ mọi người trong Bốn Châu, thì nên biết những người đó không bao lâu sẽ làm tứ Đại Thiên Vương bảo hệ Bốn Châu. Cũng vậy, Bồ Tát nào đem giáo Pháp tương tương Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa sâu xa, bổ thí cho các loài hữu tình mà tâm không hề tham tiếc, thì nên biết các vị ấy không bao lâu nữa sẽ đắt ngôi vị Pháp Vương và được tự tại với tất cả các Pháp. Này thiện dũng mãnh! Như loài hữu tình thành tựu căng lành thù thắng thanh tịnh, hơn sự thành tựu nói ở trước là, về tài bảo mà đã đạt được, trước tiên đem bổ thí cho người khác, sau đó mình mới sử dụng. Làm việc gì cũng làm cho hữu tình trước, sau đó mới làm cho mình. Thường tự thủ hộ, không vì sự ô nhiễm của tham mà làm phi pháp, bất bình đẳng. Tâm vị ấy luôn luôn nguyện làm thiên chủ. Đối với sự tu thiện tâm vị ấy rất bền chắc, nên biết những người đó không bao lâu chắc chắn sẽ sanh lên cõi trời thứ ba mươi ba và làm trời đế thích. Cũng vậy, Bồ Tát nào dùng pháp yếu tương ưng với bác nhã ba la mật đa sâu xa, bổ thí cho các hữu tình mà tâm không hề tham tiếc, thì nên biết vị ấy không bao lâu nhất định sẽ làm vị Pháp Vương và được đại tự tại với tất cả các Pháp. Này Thiện Dũng Mãnh! Ví như có người đắc bốn Phạm Trụ, Từ, Bi, Hỷ, Xã, nên biết vị này không bao lâu nữa sẽ sanh lên Phạm Thiên. Cũng vậy, Bồ Tát nào dùng pháp yếu tương ưng với bác nhã ba la mật đa sâu xa, bổ thí cho các hữu tình mà tâm không hề tham tiếc, thì nên biết vị ấy không bao lâu sẽ chuyển diệu Pháp Luân và bổ thí cho các hữu tình được lợi ích an lạc. Này Thiện Dũng Mãnh! Ví như cơn mưa khi sắp trời xuống mặt đất, thì ta thấy trên hư không mây tréo dày đặc, bầu trời tối sằm dần và tuôn xuống cơn mưa lớn, làm cho nước ao hồ, sông đậm lên lắng. Đất cao thấp đều thấm nhường, mây dày tuôn mưa ngọc xuống thấm mọi nơi, làm cho dược thảo, thực vật, cỏ cây, cành lá, hoa quả, rừng đậm đều sung suê xanh tốt. Nước trong đất, núi, sông thoảng hương thơm phức. Ở suối, ao nơi nào cũng có hoa quả. Bây giờ, mặt đất trất khả ấy, loài người chẳng phải người nhìn thấy đều thích thú, hái hoa quả để ngửi hương và nến mùi vị. Cũng vậy, Bồ-Tát nào nắm giữ bát ngã Ba-la-mật-đa sâu xa, tinh tấn siêng năng tu học, thì nên biết vị ấy không bao lâu sẽ được thấm nhường trí nhất thiết trí, khéo thể nhập trí nhất thiết trí và mở bầy được trí nhất thiết trí, do đó, làm thấm nhường tất cả loài hữu tình, khai thị rõ ràng pháp bảo vô thường. Này Thiện Dũng Mãnh! Vĩ như nước trong cung của Long Vương vô nhiệt chảy ra bốn sông lớn và cùng một hướng chảy về đầy biển cả. Cũng vậy, Bồ-Tát nào nắm giữ được bát ngã Ba-la-mật-đa sâu xa này mà ở trong đó siêng năng tinh tấn tu học, thì vị ấy có thể phát ra những dòng đại pháp và đem đại pháp ấy bố thí đầy đủ cho các hữu tình. Này Thiện Dũng Mãnh! Vĩ như bầy chiên ở trên núi diệu cao, mặc dù hình dạng của mỗi loài khác nhau, nhưng chúng cùng một màu. Cũng vậy, nếu Bồ-Tát nắm giữ được bát ngã Ba-la-mật-đa thâm sâu này mà tinh thọ tu hành thì động đến một hướng. Đó là cùng đi về hướng ký nhất thiết của Như Lai. Này Thiện Dũng Mãnh! Vĩ như biển lớn là nơi dung chứa nhiều dòng nước và thường làm chỗ quay về cho các nhánh sông. Cũng vậy, nếu Bồ-Tát nắm giữ được bát ngã Ba-la-mật-đa thâm sâu này mà tinh tấn siêng năng tu học thì vô cùng thông đạt và lợi ích. Phải biết không bao lâu vị này sẽ làm biển lớn chứa tất cả Pháp, mau thành tựu tất cả Pháp khí, thường làm chỗ quay về cho các Pháp, nên các Pháp thế gian không thể nào bị quấy nhũ được. Này Thiện Dũng Mãnh! Vĩ như mặt trời mọc lên thì làm tiêu tan các ánh sáng khác. Cũng vậy, Bồ-Tát học bát ngã Ba-la-mật-đa thâm sâu này mà xuất hiện ở thế gian thì tất cả ngoại đạo đều ấn mất. Này Thiện Dũng Mãnh! Nếu sở học bát ngã Ba-la-mật-đa của các Bồ-Tát mà xuất hiện ở thế gian thì sẽ làm Pháp chiếu sáng cho các loại hữu tình. Này Thiện Dũng Mãnh! Nếu các Bồ-Tát xuất hiện ở thế gian làm cho căng lạnh của các hữu tình được chiếu sáng, làm ruộng phước chân tịnh cho các loại hữu tình thì tất cả hữu tình đều nên cúng dương, tất cả hữu tình đều phải quay về và tất cả hữu tình đều phải khen ngợi vì ấy. Lại nữa, này Thiện Dũng Mãnh! Này Thiện Dũng Mãnh! Nếu các Bồ-Tát học bát ngã Ba-la-mật-đa là sự học tối thắng trong các việc học. Cũng vậy, người học bát ngã Ba-la-mật-đa là làm con đường niết bàn thanh tịnh cho khắp các hữu tình. Vì sao? Này Thiện Dũng Mãnh! Vì trong các việc học, học bát ngã Ba-la-mật-đa là tối thắng đệ nhất, là dịu, là vi dịu, là thường, là vô thường, là đẳng, là vô đẳng đẳng. Này Thiện Dũng Mãnh! Nếu các Bồ-Tát học bát ngã Ba-la-mật-đa thì làm cho tất cả sự học đều đạt đến cứu cánh, có thể thọ trị tất cả những gì đã học, và đối với tất cả sự học đều có thể khai thị, cũng có thể bẻ gãy được tất cả sự học của các tà luận khác. Này Thiện Dũng Mãnh! Nếu các Bồ-Tát học bát ngã Ba-la-mật-đa như vậy, thì có thể tu hành các hành Bồ-Tát của Chư Phật trong ba đời. Này Thiện Dũng Mãnh! Đối với sở học bát ngã Ba-la-mật-đa thâm sâu này, Chư Phật Thế Tôn Đã, Đăng, sẽ an trụ rất hoàn hảo và vì các hữu tình cũng đã, Đăng và sẽ thuyết pháp học vô thường thanh tịnh như vậy. Này Thiện Dũng Mãnh! Vì sở học của bát ngã Ba-la-mật-đa thâm sâu như vậy sẽ vượt qua sở học tối thắng, tối tôn của thế gian. Này Thiện Dũng Mãnh! Học bát ngã Ba-la-mật-đa như vậy là học tự nhiên, tất cả thế gian không ai sánh kịp. Này Thiện Dũng Mãnh! Nếu học bát ngã Ba-la-mật-đa thì trong các pháp hoàn toàn không có sở học. Nghĩa là dù thế gian, hay phức thế gian, hữu vi hay vô vi, hữu lậu hay vô lậu, có tội hay không tội đều không sanh sự chấp trước với tất cả pháp môn như vậy, cũng không chấp trước và trụ vào tất cả pháp, cũng muốn các hữu tình không điên đảo nên khai mở chỉ bày pháp vô thường thanh tịnh mà mình đã học. Vì sao? Này Thiện Dũng Mãnh! Vì tất cả các pháp không có chấp trước, không có trói buộc nên không có một chút pháp nào là chấp trước, là trói buộc mà hiện tiện. Do đây mà không có ý nghĩa được giải thoát. Này Thiện Dũng Mãnh! Sắc không chấp trước, không trói buộc, cũng không giải thoát, thọ, tưởng, hành, thức, không chấp trước, không trói buộc, cũng không giải thoát. Nhãn không chấp trước, không trói buộc, cũng không giải thoát, nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý không chấp trước, không trói buộc, cũng không giải thoát. Sắc không chấp trước, không trói buộc, cũng không giải thoát, thanh, hương, vị, xúc, pháp không chấp trước, không trói buộc, cũng không giải thoát. Nhãn thức không chấp trước, không trói buộc, cũng không giải thoát, nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý, thức không chấp trước, không trói buộc, cũng không giải thoát. Danh sác không chấp trước, không trói buộc, cũng không giải thoát, điên đảo, tà kiến, truyền cái, ái hành không chấp trước, không trói buộc, cũng không giải thoát. Thanh, sân, si không chấp trước, không trói buộc, cũng không giải thoát. Dục giới, sắc giới và vô sắc giới không chấp trước, không trói buộc, cũng không giải thoát. Hữu tình giới, pháp giới không chấp trước, không trói buộc, cũng không giải thoát. Nhã, hữu tình, mạng sống, sự sanh, sự nuôi, trưởng thành, người, ý sanh, tuổi trẻ, người làm, người nhận, người biết, người thấy và các tưởng kia không chấp trước, không trói buộc, cũng không giải thoát. Địa, thủy, hỏa, phong, không và thức giới không chấp trước, không trói buộc, cũng không giải thoát. Duyên khởi, những tình không chấp trước, không trói buộc, cũng không giải thoát. Bố thí, tham lam, dữ giới, phạm giới, an nhẫn, sân giận, tinh tấn, giải đải, tỉnh lự, tán loạn, trí tuệ, ác tuệ không chấp trước, không trói buộc, cũng không giải thoát. Khổ, tập, việt, đạo không chấp trước, không trói buộc, cũng không giải thoát. Niêm trụ, chánh đoạn, thần túc, trăng, lực, giác chi, đạo chi không chấp trước, không trói buộc, cũng không giải thoát. Đoạn biên đảo không chấp trước, không trói buộc, cũng không giải thoát. Tỉnh lự, giải thoát, đẳng kỳ, đẳng chí không chấp trước, không trói buộc, cũng không giải thoát. Vô lượng thần thông không chấp trước, không trói buộc, cũng không giải thoát. Trí tận, trí vô sanh, trí vô tạo tác và trí vô trước không chấp trước, không trói buộc, cũng không giải thoát. Minh và giải thoát, giải thoát trí kiến không chấp trước, không trói buộc, cũng không giải thoát. Địa vị phạm phu, thanh văn, độc giác, Bồ Tát và Phật không chấp trước, không trói buộc, cũng không giải thoát. Pháp của phạm phu, thanh văn, độc giác, Bồ Tát và Phật không chấp trước, không trói buộc, cũng không giải thoát. Sanh tử và niết bạn không chấp trước, không trói buộc, cũng không giải thoát. Trí lực, vô sở quý của Phật không chấp trước, không trói buộc, cũng không giải thoát. Trí kiến của quá khứ, vị lai, hiện tại không chấp trước, không trói buộc, cũng không giải thoát. Vì sao? Này Thiện Dũng Mảnh! Vì tất cả các Pháp mà có chấp trước thì không thể đắc, trói buộc cũng không thể đắc. Nếu chấp trước và trói buộc đã không thì từ sự giải thoát kia cũng không thể đắc. Này Thiện Dũng Mảnh! Nói chấp trước và trói buộc nghĩa là chấp trước và trói buộc vào Pháp Tánh. Nhưng Pháp Tánh đã không có nên không thể nói có chấp trước, có trói buộc. Nói giải thoát nghĩa là giải thoát khỏi sự chấp trước và trói buộc, chấp trước và trói buộc đã không nên giải thoát cũng không có. Này Thiện Dũng Mảnh! Không giải thoát nghĩa là đối với các Pháp hoàn toàn không thể đắc Tánh giải thoát. Nếu có thể thấy các Pháp như vậy thì gọi là vô trước trí kiến. Này Thiện Dũng Mảnh! Nói không chấp trước nghĩa là ở trong đây chấp trước không thể đắc, vì chấp trước Tánh không trước, chấp trước Tánh không thực nên gọi là không chấp trước. Vì trong đây người chấp trước, Pháp bị chấp trước do cái này, vì cái này, nhưng cái này, thuộc cái này đều không thể đắc nên gọi là không chấp trước. Này Thiện Dũng Mảnh! Nói không trói buộc nghĩa là trong đây trói buộc không thể đắc, trói buộc Tánh không trói buộc, trói buộc Tánh không thực nên gọi là không trói buộc. Vì trong đây người trói buộc, Pháp bị trói buộc do cái này, vì cái này, nhưng cái này, thuộc cái này đều không thể đắc nên gọi là không trói buộc. Này Thiện Dũng Mảnh! Nếu không chấp trước, không trói buộc vào các Pháp, vậy tại sao nói rằng đối với Pháp có giải thoát? Này Thiện Dũng Mảnh! Không chấp trước, không trói buộc cũng không giải thoát, lì trói buộc được mát mẻ gọi là chân giải thoát. Này Thiện Dũng Mảnh! Nếu không chấp trước các Pháp thì không bị trói buộc, nhưng không trói buộc các Pháp mà chấp trước thì không giải thoát. Xa lì ba việc, không chấp trước, không trói buộc, không giải thoát, và lì trói buộc được mát mẻ mới gọi là chân giải thoát. Này Thiện Dũng Mảnh! Như vậy Bồ Tát nào ngộ nhập được các Pháp mà không chấp trước, không trói buộc cũng không giải thoát, thì vị ấy sẽ đắc chân trí kiến mà tu hành bát nhã ba la mật đa. Này Thiện Dũng Mảnh! Nếu Bồ Tát hành được như vậy là gần quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề và mau chính đắc trí nhất thiết trí. Này Thiện Dũng Mảnh! Ta lấy Pháp ấn vi diệu của bát nhã ba la mật đa thâm sâu này, ấn chính cho các chúng đại Bồ Tát, giúp họ đoạn trừ lưới nghi rồi tinh tấn tu học bát nhã ba la mật đa thâm sâu mà mau đến cứu cánh. Này Thiện Dũng Mảnh! Nay ta sẽ giữ Pháp ấn này tồn tại lâu dài ở thế gian, để đem lợi ích an lạc cho các hữu tình. Vì sao? Vì chúng thanh văn của ta không có sức thần thông thù thắng để giữ gìn Pháp ấn vi diệu của bát nhã ba la mật đa thâm sâu này, cho đến thời gian khi ta diệt độ khoảng sau 500 năm, để làm lợi ích cho các hữu tình. Bây giờ, Đức Thế Tôn dạy 500 Bồ Tát đứng đầu như Bồ Tát Hiền Thủ, Bồ Tát Đạo Sư V.V. và Đại Bồ Tát Thiện Dũng Mảnh. Này Thiện Nam Tử! Các ông nên học bát nhã ba la mật đa thâm sâu mà từ vô lượng, vô số trăm ngàn triệu ức kiếp chính Như Lai đã từng tu tập như vậy để làm đầu. Vì Pháp Tạng Vô Thượng của chiêu Như Lai lưu xuất từ bát nhã ba la mật đa thâm sâu, kiến lập cũng từ bát nhã ba la mật đa thâm sâu. Cho nên các ông nên giữ định Pháp Tạng ấy. Vậy khi ta nhập Niết Bàn khoảng sau 500 năm, Chánh Pháp Vô Thượng ấy khi sắp hoại diệt thì vào thời gian chuyển tiết, các ông hãy vì các hữu tình mà Giảng nói, khai thị rộng đại để họ nghe đạt lợi ích lớn. Khi nghe Phật dạy như vậy thì các Bồ Tát đều đứng dậy, đảnh lễ dưới chân Phật và chấp tay cung kính Thưa Phật. Bạch Thế Tôn! Chúng con sẽ học bát nhã ba la mật đa thâm sâu mà Như Lai đã từng tu học từ vô lượng, vô số trăm ngàn triệu ức kiếp như vậy để làm đầu. Vì Pháp Tạng Vô Thượng lưu suất từ bát nhã ba la mật đa thâm sâu và được kiến lập cũng từ bát nhã ba la mật đa thâm sâu. Vậy chúng con sẽ giữ dình Pháp Tạng này cho đến thời gian khi Thế Tôn nhập Niết Bàn khoảng sau 500 năm, lúc Chánh Pháp Vô Thượng sắp hoại diệt, cho đến thời gian chuyển tiết thì chúng con sẽ Giảng nói và khai thị rộng đại cho các loài hữu tình, để họ nghe rồi sẽ đạt được lợi ích lớn. Bạch Thế Tôn! Vào thời gian đó, có rất nhiều sự sợ hãi, rất nhiều hiểm nạn, rất nhiều sự bạo ác và thời gian ấy các hữu tình phần nhiều tạo nghiệp đưa đến quả báo thiếu Pháp, lòng họ tham dục, bị tham bất bình đẳng và bị tham phi Pháp làm nhiễm ô, bỏng sẻng, ganh ghét, trói buộc tâm của họ. Họ nhiều sân hận, thích nói lời hung ác, vô định dối trá, thích làm phi Pháp, nhiều khinh khi, đấu tranh kiện tụng, chống đối nhau. Sống không có ai nghi giới luật, bị tham đắm che mờ, giải đại càng tăng thượng, tinh tấn thì yếu kém. Họ quên mất chánh niệm, thường không biết đúng. Miệng mộng khoát lát, cống cao ngã mạn, thích làm nghiệt ác che giấu trong lòng. Tham, sân, si càng ngày càng tăng, còn căng lạnh thì mỏng ít, bị mạng vô minh che lấp nên những việc của họ làm ra đều thuận với bè đảng của ma. Thường làm oán tạc hại đến Pháp luật thâm sâu, là giặc lớn của kho Pháp báo. Vì bẩm tánh xấu ác của họ nên khó có ai gần gũi được. Bạch Thế Tôn. Từ nay chúng con quyết định giữ gìn pháp tạng vô thường mà Đức Như Lai đã tu tập như vậy từ vô lượng, vô số trăm ngàn triệu ức kiếp, để làm lợi ích lớn cho các loại hữu tình. Bạch Thế Tôn. Thời gian đó sẽ có rất ít hữu tình siêng năng thích tiện đọc pháp tạng này. Nhưng bẩm tánh của các hữu tình ấy thì chân thật không vô nịnh, dối trá, họ thà bỏ thân mạng chứ không phá Pháp, cũng không bị bán và nhảm chán chống đối Pháp. Chúng con sẽ làm lợi ích cho họ, bằng cách siêng năng chỉ dạy Pháp thâm sâu ấy và khen ngợi, khuyến khích, vui mừng giúp họ siêng năng tu học. Bây giờ, Thế Tôn dùng thần lực hộ trì pháp tạng Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa thâm sâu vô thượng vi diệu, khiến cho bọn ác ma không thể nào làm hoại diệt được. Lại dùng quai lực hộ trì người có thể giữ gìn và tinh tấn tu hành pháp tạng này, giúp họ cắt đứt lưới ma, được giải thoát, để sự tu hành của họ mau đạt đến cứu cánh. Khi ấy, Đức Phật Thế Tôn miễn cười phóng ánh sáng lớn chiếu khắp ba ngàn đại thiên thế giới, các hữu tình ở cõi người, trên trời, nhờ ánh sáng của Phật đều thấy mặt nhau. Trong hội này có Trời, Đồng, Dược Xoa, Kiện Đạt Phược, A Tố Lạc, Ít Lộ Trà, Khẩn Đại Lạc, Mạc Hô Lạc Gia và chúng thần khác đều đem những loại hương hoa đẹp trên trời, dân gãi lên cúng dường Thế Tôn, rồi lớn tiếng ca ngâm. Sức quay thần lớn của Như Lai Thật Khi Hữu, đã hộ trì Pháp Tạng và người tu hành, khiến cho quân ác ma không thể phá hoại được, các lưới các ác ma, được đại tự tại, việc tu hành mau đạt đến cứu cánh. Nếu có thiện Nam, tính nữ V, V, nào thọ trì, đọc tụng Pháp môn này, giảng thuyết quảng bá cho người khác thì không sợ các quân ác ma. Hoặc Bồ Tát nào thọ trì, đọc tụng Pháp môn này và đọng nói cho người khác, thì vị ấy có thể chiến thắng các quân ác ma và tất cả ác ma không thể nào làm trở ngại được. Phật Bảo Thiện Dũng Mảnh Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như Chiêu Thiên nói! Này Thiện Dũng Mảnh! Như Lai đối với Pháp môn vô thượng này đã kết cương với các ác ma, khiến tất cả vọng lưới của chúng không gây trứng ngại Pháp môn này. Này Thiện Dũng Mảnh! Hôm nay Như Lai nương vào Pháp môn này mà đánh bại tất cả thế lực của các ác ma. Này Thiện Dũng Mảnh! Hôm nay Như Lai sẽ bảo hộ Pháp môn này, ngăn chặn các ác ma không cho xâm tổn nữa. Này Thiện Dũng Mảnh! Nếu các thiện nam, tính nữ V, V, tỉnh tính Thò Tri, đọc tụng Pháp môn này và giảng nói rộng rãi cho người khác, thì tất cả ác ma không thể quấy nhiễu họ được, ngược lại họ có thể chiến thắng các ma quán. Hoặc các Bồ Tát nào Thò Tri, đọc tụng Pháp môn này và giảng nói rộng rãi cho người khác, thì vì ấy có thể chinh phục tất cả quân ma và bố thí cho các hữu tình được lợi ích an lạc. Này Thiện Dũng Mảnh! Pháp môn như vậy các loài hữu tình tạp nhiễm không thể đắc được. Này Thiện Dũng Mảnh! Pháp môn như vậy chẳng phải cảnh giới tu hành của những người bị lưới ma trói bắt. Này Thiện Dũng Mảnh! Pháp môn như vậy là cảnh giới tu hành của những người có trí tuệ, tánh hoàn toàn thiện. Này Thiện Dũng Mảnh! Ví như con ngựa rất không ngoan, hiên từ, chẳng phải dành cho những vua nhỏ cởi, cũng không xuất hiện vào thời tệ ác mà chỉ được Luân Vương nuôi dùng. Do đó mà nó chỉ xuất hiện vào thời có Luân Vương. Cũng vậy, chỉ có người hiền hòa, trí tuệ thông minh mới có thể thọ dụng Pháp môn thâm sâu này và Pháp này chỉ đến tay của người đó. Này Thiện Dũng Mảnh! Ví như Long Vương Tra Giới, Long Vương Thiện Trụ, Long Vương Ai La Việt Noa, chúng không vì người ta sử dụng, hay muốn thấy mà xuất hiện, cũng không vì chúng trời khác sử dụng mà xuất hiện. Chỉ có chúng trời thông minh trí tuệ tài giỏi sử dụng mới xuất hiện. Như trời Đế Thích nghĩ, muốn chỗ chúng trời dạo chơi thêm phần đẹp đẻ, thì con rồng ấy hiện rõ tướng trạng trước mặt Đế Thích, cho trời Đế Thích V.V. sử dụng. Cũng vậy, chỉ có thiện sĩ nhân Đế mới có thể sử dụng Pháp môn thâm sâu này, nghĩa là vị ấy lắng nghe, thọ trì, đọc tụng và giảng nói, phân biệt cho hữu tình, đối với Pháp này, vị ấy là đại trang nghiêm, rất lưu thông, làm đại Pháp chiếu sáng, thành tựu đại Pháp hỷ và thọ nhận đại Pháp lạc. Này Thiện Dũng Mảnh! Nếu ai đối với bác nhã Ba-la-mật-đa thâm sâu này mà thọ trì, dù chỉ một câu cũng đạt được vô lượng, vô biên công đức, huống gì họ được kinh đại bác nhã này mà thọ trì, chuyển đọc, ghi chép đầy đủ và cúng dường lưu truyền động đại Pháp cho người khác, thì phước đức của người này đạt được không thể nghĩ bàn. Này Thiện Dũng Mảnh! Chỉ có người trí tuệ thông minh và hoài nhã mới có thể hồ trì Pháp môn này. Còn người không có trí tuệ thông minh và hoài nhã thì Pháp môn này chẳng phải là cảnh giới của họ. Này Thiện Dũng Mảnh! Vì muốn đoạn mọi nghi ngờ cho các hữu tình mà ta nói kinh đại bác nhã như vậy. Khi Phật nói Pháp này thì có vô lượng, vô số đại Bồ Tát đắc được vô sanh Pháp nhẫn và có vô biên các loài hữu tình đều phát tâm quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề. Nếu ngay lúc ấy như Lai Thọ ký cho họ thì nhất định họ sẽ chứng đắc quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề. Khi bạc gia Phạm nói kinh này xong thì các đại Bồ Tát Thiện Dũng Mảnh V.V. và bốn chúng như Trời, Đồng, Dược Xoa, Triện Đạt Phược, A Tố Lạc, Ít Lộ Trà, Phẫn Đại Lạc, Mạc Hô Lạc Dạ, người chẳng phải người nghe Phật nói đều rất khoan hỷ, tính thỏ và phụng hành. Cảm ơn các bạn đã theo dõi và hẹn gặp lại.