Details
Nothing to say, yet
Nothing to say, yet
Kinh Đại Bách Nhã Ba La Mật Đa Tập 3 Quyển 70 18 Phẩm Vô Sở Đắc 10 Xá lợi tử Bản tánh của 5 loại mắt là không Nếu bản tánh của Pháp là không thì chẳng thể bày ra nào là xanh, nào là diệt, nào là trụ, nào là gì Do duyên cớ này nên nếu là trốt tráo chẳng xanh thì chẳng thể gọi là 5 loại mắt Xá lợi tử Bản tánh của 6 phép thần thông là không Nếu bản tánh của Pháp là không thì chẳng thể bày ra nào là xanh, nào là diệt, nào là trụ, nào là gì Do duyên cớ này nên nếu là trốt tráo chẳng xanh thì chẳng thể gọi là 6 phép thần thông Xá lợi tử Bản tánh của 10 lực Phật là không Nếu bản tánh của Pháp là không thì chẳng thể bày ra nào là xanh, nào là diệt, nào là trụ, nào là gì Do duyên cớ này nên nếu là trốt tráo chẳng xanh thì chẳng thể gọi là 10 lực của Phật Xá lợi tử Bản tánh của 4 điều không sợ, 4 sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại đi, đại hỷ, đại xã, 18 pháp Phật bất cộng là không Nếu bản tánh của Pháp là không thì chẳng thể bày ra nào là xanh, nào là diệt, nào là trụ, nào là gì Do duyên cớ này nên nếu là trốt tráo chẳng xanh thì chẳng thể gọi là 4 điều không sợ cho đến 18 pháp Phật bất cộng Xá lợi tử Bản tánh của Trí nhất thiết là không Nếu bản tánh của Pháp là không thì chẳng thể bày ra nào là xanh, nào là diệt, nào là trụ, nào là gì Do duyên cớ này nên nếu là trốt tráo chẳng xanh thì chẳng thể gọi là Trí nhất thiết Xá lợi tử Bản tánh của Trí đạo tướng Trí nhất thiết tướng là không Nếu bản tánh của Pháp là không thì chẳng thể bày ra nào là xanh, nào là diệt, nào là trụ, nào là gì Do duyên cớ này nên nếu là trốt tráo chẳng xanh thì chẳng thể gọi là Trí đạo tướng Trí nhất thiết tướng Xá lợi tử Bản tánh của Pháp không quên mất là không Nếu bản tánh của Pháp là không thì chẳng thể bày ra nào là xanh, nào là diệt, nào là trụ, nào là gì Do duyên cớ này nên nếu là trốt tráo chẳng xanh thì chẳng thể gọi là Pháp không quên mất Xá lợi tử Bản tánh của tánh luôn luôn xả là không Nếu bản tánh của Pháp là không thì chẳng thể bày ra nào là xanh, nào là diệt, nào là trụ, nào là gì Do duyên cớ này nên nếu là trốt tráo chẳng xanh thì chẳng thể gọi là tánh luôn luôn xả Xá lợi tử Bản tánh của tất cả Pháp Môn Đà La Nhi là không Nếu bản tánh của Pháp là không thì chẳng thể bày ra nào là xanh, nào là diệt, nào là trụ, nào là gì Do duyên cớ này nên nếu là trốt tráo chẳng xanh thì chẳng thể gọi là tất cả Pháp Môn Đà La Nhi Xá lợi tử Bản tánh của tất cả Pháp Môn Tam Ma Địa là không Nếu bản tánh của Pháp là không thì chẳng thể bày ra nào là xanh, nào là diệt, nào là trụ, nào là gì Do duyên cớ này nên nếu là trốt tráo chẳng xanh thì chẳng thể gọi là tất cả Pháp Môn Tam Ma Địa Xá lợi tử Bản tánh của Bật Tực Khỉ là không Nếu bản tánh của Pháp là không thì chẳng thể bày ra nào là xanh, nào là diệt, nào là trụ, nào là gì Do duyên cớ này nên nếu là trốt tráo chẳng xanh thì chẳng thể gọi là Bật Tực Khỉ Xá lợi tử Bản tánh của Bật Ly Tấu, Bật Pháp Quang, Bật Dịm Tuệ, Bật Trực Nang Thắng, Bật Hiện Tiền, Bật Viễn Hành, Bật Bất Động, Bật Thiện Tuệ, Bật Pháp Vân là không Nếu bản tánh của Pháp là không thì chẳng thể bày ra nào là xanh, nào là diệt, nào là trụ, nào là gì Do duyên cớ này nên nếu là trốt tráo chẳng xanh thì chẳng thể gọi là Bật Ly Tấu cho đến Bật Pháp Vân Xá lợi tử Bản tánh của Bật Phạm Phu là không Nếu bản tánh của Pháp là không thì chẳng thể bày ra nào là xanh, nào là diệt, nào là trụ, nào là gì Do duyên cớ này nên nếu là trốt tráo chẳng xanh thì chẳng thể gọi là Bật Phạm Phu Xá lợi tử Bản tánh của Bật Chủng Tánh, Bật Tệ Bác, Bật Cụ Kiến, Bật Bạc, Bật Ly Dục, Bật Dĩ Biện, Bật Độc Giác, Bật Bồ Tát, Bật Như Lai là không Nếu bản tánh của Pháp là không thì chẳng thể bày ra nào là xanh, nào là diệt, nào là trụ, nào là gì Do duyên cớ này nên nếu là trốt tráo chẳng xanh thì chẳng thể gọi là Bật Chủng Tánh cho đến Bật Như Lai Xá lợi tử Bản tánh của Thanh Văn Thừa là không Nếu bản tánh của Pháp là không thì chẳng thể bày ra nào là xanh, nào là diệt, nào là trụ, nào là gì Do duyên cớ này nên nếu là trốt tráo chẳng xanh thì chẳng thể gọi là Thanh Văn Thừa Xá lợi tử Bản tánh của Độc Giác Thừa, Đại Thừa là không Nếu bản tánh của Pháp là không thì chẳng thể bày ra nào là xanh, nào là diệt, nào là trụ, nào là gì Do duyên cớ này nên nếu là trốt tráo chẳng xanh thì chẳng thể gọi là Độc Giác Thừa, Đại Thừa Xá lợi tử Do duyên cớ này nên tôi nói nếu là trốt tráo chẳng xanh thì chẳng thể gọi là sắc V, V vì Pháp không, vô xanh, bất xả thuyết Lúc bấy giờ cụ Thọ Thiện hiện lại đáp lời xá lợi tử như Tôn Giả đã hỏi vì duyên cớ gì mà nói tôi đâu có thể dùng Bát Nhã Ba La Mật Đa trốt tráo chẳng xanh để dạy bảo trao truyền cho các Đại Bồ Tát trốt tráo chẳng xanh Xá lợi tử Trốt tráo chẳng xanh tức là Bát Nhã Ba La Mật Đa, Bát Nhã Ba La Mật Đa tức là trốt tráo chẳng xanh Vì sao Vì trốt tráo chẳng xanh cùng với Bát Nhã Ba La Mật Đa không hai, không hai phần Xá lợi tử Trốt tráo chẳng xanh tức là Đại Bồ Tát, Đại Bồ Tát tức là trốt tráo chẳng xanh Vì sao Vì trốt tráo chẳng xanh cùng với Đại Bồ Tát không hai, không hai phần Xá lợi tử Do duyên cớ này nên tôi nói là tôi đâu có thể dùng Bát Nhã Ba La Mật Đa trốt tráo chẳng xanh để dạy bảo trao truyền cho các Đại Bồ Tát trốt tráo chẳng xanh Lúc bấy giờ cụ Thọ Thiện Hiện lại đáp lời xá lợi tử, nhiều tôn giả đã hỏi, vì duyên cớ gì mà nói là liệu trốt tráo chẳng xanh cũng không có Đại Bồ Tát nào có thể tu hành quả vị giác ngộ cao tột Xá lợi tử Các Đại Bồ Tát khi tu hành Bát Nhã Ba La Mật Đa chẳng thấy Bát Nhã Ba La Mật Đa khác với trốt tráo chẳng xanh, cũng chẳng thấy Đại Bồ Tát khác với trốt tráo chẳng xanh Vì sao Vì hoặc Bát Nhã Ba La Mật Đa hoặc Đại Bồ Tát cùng với trốt tráo chẳng xanh không hay, không hay phần Xá lợi tử Các Đại Bồ Tát khi tu hành Bát Nhã Ba La Mật Đa chẳng thấy sắc khác với trốt tráo chẳng xanh, cũng chẳng thấy Thọ, Tưởng, Hành, Thức khác với trốt tráo chẳng xanh Vì sao Vì sắc cho đến Thức cùng với trốt tráo chẳng xanh không hay, không hay phần Xá lợi tử Các Đại Bồ Tát khi tu hành Bát Nhã Ba La Mật Đa chẳng thấy nhãn xứ khác với trốt tráo chẳng xanh, cũng chẳng thấy nhĩ, tỉ, thiệt, thân, y xứ khác với trốt tráo chẳng xanh Vì sao Vì nhãn xứ cho đến y xứ cùng với trốt tráo chẳng xanh không hay, không hay phần Xá lợi tử Các Đại Bồ Tát khi tu hành Bát Nhã Ba La Mật Đa chẳng thấy sắc xứ khác với trốt tráo chẳng xanh, cũng chẳng thấy thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ khác với trốt tráo chẳng xanh Vì sao Vì sắc xứ cho đến pháp xứ cùng với trốt tráo chẳng xanh không hay, không hay phần Xá lợi tử Các Đại Bồ Tát khi tu hành Bát Nhã Ba La Mật Đa chẳng thấy nhãn giới khác với trốt tráo chẳng xanh, cũng chẳng thấy sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên xanh ra khác với trốt tráo chẳng xanh Vì sao Vì nhãn giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên xanh ra cùng với trốt tráo chẳng xanh không hay, không hay phần Xá lợi tử Các Đại Bồ Tát khi tu hành Bát Nhã Ba La Mật Đa chẳng thấy nhãn giới khác với trốt tráo chẳng xanh, cũng chẳng thấy sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên xanh ra khác với trốt tráo chẳng xanh Vì sao Vì nhãn giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên xanh ra cùng với trốt tráo chẳng xanh không hay, không hay phần Xá lợi tử Các Đại Bồ Tát khi tu hành Bát Nhã Ba La Mật Đa chẳng thấy nhãn giới khác với trốt tráo chẳng xanh, cũng chẳng thấy sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên xanh ra khác với trốt tráo chẳng xanh Vì sao Vì nhãn giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên xanh ra cùng với trốt tráo chẳng xanh không hay, không hay phần Xá lợi tử Các Đại Bồ Tát khi tu hành Bát Nhã Ba La Mật Đa chẳng thấy thiệt giới khác với trốt tráo chẳng xanh, cũng chẳng thấy vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên xanh ra khác với trốt tráo chẳng xanh Vì sao Vì thiệt giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên xanh ra cùng với trốt tráo chẳng xanh không hay, không hay phần Xá lợi tử Các Đại Bồ Tát khi tu hành Bát Nhã Ba La Mật Đa chẳng thấy thân giới khác với trốt tráo chẳng xanh, cũng chẳng thấy xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên xanh ra khác với trốt tráo chẳng xanh Vì sao Vì thân giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên xanh ra cùng với trốt tráo chẳng xanh không hay, không hay phần Xá lợi tử Các Đại Bồ Tát khi tu hành Bát Nhã Ba La Mật Đa chẳng thấy y giới khác với trốt tráo chẳng xanh, cũng chẳng thấy pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên xanh ra khác với trốt tráo chẳng xanh Vì sao Vì y giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên xanh ra cùng với trốt tráo chẳng xanh không hay, không hay phần Xá lợi tử Các Đại Bồ Tát khi tu hành Bát Nhã Ba La Mật Đa chẳng thấy địa giới khác với trốt tráo chẳng xanh, cũng chẳng thấy thủy, hỏa, phong, không, thức giới khác với trốt tráo chẳng xanh Vì sao Vì địa giới cho đến thức giới cùng với trốt tráo chẳng xanh không hay, không hay phần Xá lợi tử Các Đại Bồ Tát khi tu hành Bát Nhã Ba La Mật Đa chẳng thấy thánh đế khổ khác với trốt tráo chẳng xanh, cũng chẳng thấy thánh đế tập, diệt, đạo khác với trốt tráo chẳng xanh Vì sao Vì thánh đế khổ cho đến thánh đế đạo cùng với trốt tráo chẳng xanh không hay, không hay phần Xá lợi tử Các Đại Bồ Tát khi tu hành Bát Nhã Ba La Mật Đa chẳng thấy vô minh khác với trốt tráo chẳng xanh, cũng chẳng thấy hành, thức, danh sắc, luật sứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, xanh, lão tử, sầu, thang, khổ, ưu, não khác với trốt tráo chẳng xanh Vì sao Vì vô minh cho đến lão tử, sầu, thang, khổ, ưu, não cùng với trốt tráo chẳng xanh không hay, không hay phần Xá lợi tử Các Đại Bồ Tát khi tu hành Bát Nhã Ba La Mật Đa chẳng thấy cái không nội khác với trốt tráo chẳng xanh, cũng chẳng thấy cái không ngoại, cái không nội ngoại, cái không không, cái không lớn, cái không thắng nghĩa, cái không hữu vi, cái không vô vi, cái không trốt tráo, cái không không biên giới, cái không tảng mạng, cái không không đội khác, cái không bản tánh, cái không tự tướng, cái không tổng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái không không tánh, cái không tự tánh Cái không không tánh tự tánh khác với trốt tráo chẳng xanh. Vì sao? Vì cái không nội cho đến cái không không tánh tự tánh cùng với trốt tráo chẳng xanh không hay, không hay phần Xá lợi tử. Các đại Bồ-Tát khi tu hành bát nhã Ba-la-mật-đa chẳng thấy bố thí Ba-la-mật-đa khác với trốt tráo chẳng xanh, cũng chẳng thấy tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, bát nhã Ba-la-mật-đa khác với trốt tráo chẳng xanh. Vì sao? Vì bố thí Ba-la-mật-đa cho đến bát nhã Ba-la-mật-đa cùng với trốt tráo chẳng xanh không hay, không hay phần. Xá lợi tử. Các đại Bồ-Tát khi tu hành bát nhã Ba-la-mật-đa chẳng thấy bốn tịnh lự khác với trốt tráo chẳng xanh, cũng chẳng thấy bốn vô lượng, bốn định vô sắc khác với trốt tráo chẳng xanh. Vì sao? Vì bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc cùng với trốt tráo chẳng xanh không hay, không hay phần. Xá lợi tử. Các đại Bồ-Tát khi tu hành bát nhã Ba-la-mật-đa chẳng thấy tám giải thoát khác với trốt tráo chẳng xanh, cũng chẳng thấy tám thắng xứ, chính định thứ đệ, mười biến xứ khác với trốt tráo chẳng xanh. Vì sao? Vì tám giải thoát cho đến mười biến xứ cùng với trốt tráo chẳng xanh không hay, không hay phần. Xá lợi tử. Các đại Bồ-Tát khi tu hành bát nhã Ba-la-mật-đa chẳng thấy bốn niệm trụ khác với trốt tráo chẳng xanh, cũng chẳng thấy bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căng, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo khác với trốt tráo chẳng xanh. Vì sao? Vì bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo cùng với trốt tráo chẳng xanh không hay, không hay phần. Xá lợi tử. Các đại Bồ-Tát khi tu hành bát nhã Ba-la-mật-đa chẳng thấy pháp môn giải thoát không khác với trốt tráo chẳng xanh, cũng chẳng thấy pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện khác với trốt tráo chẳng xanh. Vì sao? Vì pháp môn giải thoát không, pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện cùng với trốt tráo chẳng xanh không hay, không hay phần. Xá lợi tử. Các đại Bồ-Tát khi tu hành bát nhã Ba-la-mật-đa chẳng thấy năm loại mắt khác với trốt tráo chẳng xanh, cũng chẳng thấy sáu phép thần thông khác với trốt tráo chẳng xanh. Vì sao? Vì năm loại mắt, sáu phép thần thông cùng với trốt tráo chẳng xanh không hay, không hay phần. Xá lợi tử. Các đại Bồ-Tát khi tu hành bát nhã Ba-la-mật-đa chẳng thấy mười lực của Phật khác với trốt tráo chẳng xanh, cũng chẳng thấy bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại phả, mười tám pháp Phật bất cộng khác với trốt tráo chẳng xanh. Vì sao? Vì mười lực của Phật cho đến mười tám pháp Phật bất cộng cùng với trốt tráo chẳng xanh không hay, không hay phần. Xá lợi tử. Các đại Bồ-Tát khi tu hành bát nhã Ba-la-mật-đa chẳng thấy trí nhất thiết khác với trốt tráo chẳng xanh, cũng chẳng thấy trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng khác với trốt tráo chẳng xanh. Vì sao? Vì trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng cùng với trốt tráo chẳng xanh không hay, không hay phần. Xá lợi tử. Các đại Bồ-Tát khi tu hành bát nhã Ba-la-mật-đa chẳng thấy Pháp không quên mất khác với trốt tráo chẳng xanh, cũng chẳng thấy tánh luôn luôn xả khác với trốt tráo chẳng xanh. Vì sao? Vì Pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả cùng với trốt tráo chẳng xanh không hay, không hay phần. Xá lợi tử. Các đại Bồ-Tát khi tu hành bát nhã Ba-la-mật-đa chẳng thấy tất cả Pháp Môn Đà-la-Ni khác với trốt tráo chẳng xanh, cũng chẳng thấy tất cả Pháp Môn Tam-ma-địa khác với trốt tráo chẳng xanh. Vì sao? Vì tất cả Pháp Môn Đà-la-Ni, tất cả Pháp Môn Tam-ma-địa cùng với trốt tráo chẳng xanh không hay, không hay phần. Xá lợi tử. Các đại Bồ-Tát khi tu hành bát nhã Ba-la-mật-đa chẳng thấy bật thực khỉ khác với trốt tráo chẳng xanh, cũng chẳng thấy bật ly cấu, bật phát quan, bật dịnh tuệ, bật thực nang thắng, bật hiện tiền, bật viễn hành, bật bất động, bật thiện tuệ, bật Pháp Vân khác với trốt tráo chẳng xanh. Vì sao? Vì bật thực khỉ cho đến bật Pháp Vân cùng với trốt tráo chẳng xanh không hay, không hay phần. Xá lợi tử. Các đại Bồ-Tát khi tu hành bát nhã Ba-la-mật-đa chẳng thấy bật phạm phu khác với trốt tráo chẳng xanh, cũng chẳng thấy bật trũng tánh, bật tệ bát, bật cụ kiến, bật bạc, bật ly dục, bật dĩ biện, bật độc giác, bật Bồ-Tát, bật như lai khác với trốt tráo chẳng xanh. Vì sao? Vì bật phạm phu cho đến bật như lai cùng với trốt tráo chẳng xanh không hay, không hay phần. Xá lợi tử. Các đại Bồ-Tát khi tu hành bát nhã Ba-la-mật-đa chẳng thấy thanh văn thừa khác với trốt tráo chẳng xanh, cũng chẳng thấy độc giác thừa, đại thừa khác với trốt tráo chẳng xanh. Vì sao? Vì thanh văn thừa, độc giác thừa, đại thừa cùng với trốt tráo chẳng xanh không hay, không hay phần. Xá lợi tử. Do duyên cớ này nên tôi nói lìa trốt tráo chẳng xanh không có Bồ-Tát nào có thể tu hành quả vị giác ngộ cao tột. Lúc bấy giờ cụ thọ thiền hiền lại đáp lời xá lợi tử, như tôn giả đã hỏi, vì duyên cớ gì mà nói là nếu đại Bồ-Tát nghe nói như vậy mà tâm chẳng kinh hoàng, chẳng hải hung, chẳng sợ sệt, chẳng chìm, chẳng đắm, cũng chẳng lo buồn, hối tiếc, nên biết đó là đại Bồ-Tát có khả năng tu hành bát nhã Ba-la-mật-đa. Xá lợi tử. Các đại Bồ-Tát khi tu hành bát nhã Ba-la-mật-đa chẳng thấy các Pháp có giác, có dùng mà thấy tất cả Pháp như sự huyển, như cảnh mộng, như ảnh tượng, như tiếng vang, như bóng sáng, như bóng nước, như hoa hư không, như ảo thành, như trò biến hóa, đều chẳng phải thật có. Nghe nói bản tánh của các Pháp đều không, trong lòng rất khoan hỷ. Xá lợi tử. Do duyên cớ này, đền tôi nói là nếu đại Bồ-Tát nghe nói như vậy mà tâm chẳng kinh hoàng, chẳng hải hung, chẳng sợ sệt, chẳng chìm, chẳng đắm, cũng chẳng lo buồn, hối tiếc thì nên biết đó là đại Bồ-Tát có khả năng tu hành bát nhã Ba-la-mật-đa. Lúc bấy giờ, cụ Thọ Thiện Hiện Bạch Phật, Bạch Thế Tôn, các đại Bồ-Tát tu hành bát nhã Ba-la-mật-đa khi quán các Pháp, đối với sắc chẳng thọ, chẳng thủ, chẳng chấp, chẳng trước, cũng chẳng cho là sắc, đối với thọ, tưởng, hành, thức, chẳng thọ, chẳng thủ, chẳng chấp, chẳng trước, cũng chẳng cho là thật có thọ, tưởng, hành, thức. Bạch Thế Tôn Các đại Bồ-Tát tu hành bát nhã Ba-la-mật-đa khi quán các Pháp, đối với nhãn xứ chẳng thọ, chẳng thủ, chẳng chấp, chẳng trước, cũng chẳng cho là thật có nhãn xứ, đối với nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý xứ, chẳng thọ, chẳng thủ, chẳng chấp, chẳng trước, cũng chẳng cho là thật có nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý xứ. Bạch Thế Tôn Các đại Bồ-Tát tu hành bát nhã Ba-la-mật-đa khi quán các Pháp, đối với nhãn xứ chẳng thọ, chẳng thủ, chẳng chấp, chẳng trước, cũng chẳng cho là thật có nhãn xứ, đối với nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý xứ, chẳng thọ, chẳng thủ, chẳng chấp, chẳng trước, cũng chẳng cho là thật có nhãn xứ, tỉ, thiệt, thân, ý xứ, chẳng thọ, chẳng thủ, chẳng chấp, chẳng trước, cũng chẳng cho là thật có nhãn xứ, tỉ, thiệt, thân, ý xứ, chẳng th chẳng trước, cũng chẳng cho là thật có nhãn xứ, tỉ, thiệt, thân, ý xứ, chẳng trước, cũng chẳng cho là thật có nhãn xứ, tỉ, thiệt, thân, ý xứ, chẳng trước, cũng chẳng cho là thật có nhãn xứ, tỉ, thiệt, thân, ý xứ, chẳng trước, cũng chẳng cho là thật có nhãn xứ, tỉ, thiệt, thân, ý xứ, chẳng trước, cũng chẳng cho là thật có nhãn xứ, tỉ, thiệt, thân, ý xứ, chẳng trước, cũng chẳng cho là thật có nhãn xứ, tỉ, thiệt, thân, ý xứ, chẳng trước, cũng chẳ nhãn xứ, tỉ, thiệt, thân, ý xứ, chẳng trước, cũng chẳng cho là thật có nhãn xứ, tỉ, thiệt, thân, ý xứ, chẳng trước, cũng chẳng cho là thật có nhãn xứ, tỉ, thiệt, thân, ý xứ, chẳng trước, cũng chẳng cho là thật có nhãn xứ, tỉ, thiệt, thân, ý xứ, chẳng trước, cũng chẳng cho là thật có nhãn xứ, tỉ, thiệt, thân, ý xứ, chẳng trước, cũng chẳng cho là thật có nhãn xứ, tỉ, thiệt, thân, ý xứ, chẳng trước, cũng chẳng cho là thật có nhãn xứ, tỉ, thi thân, ý xứ, chẳng trước, cũng chẳng cho là thật có nhãn xứ, tỉ, thiệt, thân, ý xứ, chẳng trước, cũng chẳng cho là thật có nhãn xứ, tỉ, thiệt, thân, ý xứ, chẳng trước, cũng chẳng cho là thật có nhãn xứ, tỉ, thiệt, thân, ý xứ, chẳng trước, cũng chẳng cho là thật có nhãn xứ, tỉ, thiệt, thân, ý xứ, chẳng trước, cũng chẳng cho là thật có nhãn xứ, tỉ, thiệt, thân, ý xứ, chẳng trước, cũng chẳng cho là thật có nhãn xứ, tỉ, thiệt, thân, ý xứ, chẳ Bạch Thế Tôn Các Đại Bồ Tát Tu Hành Bát Nhã Ba La Mật Đa, khi Quán Các Pháp, đối với thân giới chẳng thọ, chẳng thủ, chẳng chấp, chẳng trước, cũng chẳng cho là thật có thân giới, đối với xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra, chẳng thọ, chẳng thủ, chẳng chấp, chẳng trước, cũng chẳng cho là thật có xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra. Bạch Thế Tôn Các Đại Bồ Tát Tu Hành Bát Nhã Ba La Mật Đa, khi Quán Các Pháp, đối với ý giới chẳng thọ, chẳng thủ, chẳng chấp, chẳng trước, cũng chẳng cho là thật có ý giới, đối với pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra, chẳng thọ, chẳng thủ, chẳng chấp, chẳng trước, cũng chẳng cho là thật có pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra. Bạch Thế Tôn Các Đại Bồ Tát Tu Hành Bát Nhã Ba La Mật Đa, khi Quán Các Pháp, đối với ý giới chẳng thọ, chẳng thủ, chẳng chấp, chẳng trước, cũng chẳng cho là thật có ý giới, đối với thủy, hỏa, phong, không, thức giới, chẳng thọ, chẳng thủ, chẳng chấp, chẳng trước, cũng chẳng cho là thật có thủy, hỏa, phong, không, thức giới. Bạch Thế Tôn Các Đại Bồ Tát Tu Hành Bát Nhã Ba La Mật Đa, khi Quán Các Pháp, đối với thánh đế khổ chẳng thọ, chẳng thủ, chẳng chấp, chẳng trước, cũng chẳng cho là thật có thánh đế khổ, đối với thánh đế tập, diệt, đạo, chẳng thọ, chẳng thủ, chẳng chấp, chẳng trước, cũng chẳng cho là thật có thánh đế tập, diệt, đạo. Bạch Thế Tôn Các Đại Bồ Tát Tu Hành Bát Nhã Ba La Mật Đa, khi Quán Các Pháp, đối với vô minh chẳng thọ, chẳng thủ, chẳng chấp, chẳng trước, cũng chẳng cho là thật có vô minh, đối với hành, thức, danh sách, luật sứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, thang, khổ, ưu, não, chẳng thọ, chẳng thủ, chẳng chấp, chẳng trước, cũng chẳng cho là thật có hành, cho đến lão tử, sầu, thang, khổ, ưu, não. Bạch Thế Tôn Các Đại Bồ Tát Tu Hành Bát Nhã Ba La Mật Đa, khi Quán Các Pháp, đối với vô minh chẳng thọ, chẳng thủ, chẳng chấp, chẳng trước, cũng chẳng cho là thật có vô minh, đối với hành, thức, sanh, lão tử, sầu, thang, khổ, ưu, não. Bạch Thế Tôn Các Đại Bồ Tát Tu Hành Bát Nhã Ba La Mật Đa, khi Quán Các Pháp, đối với bố thí Ba La Mật Đa chẳng thọ, chẳng thủ, chẳng chấp, chẳng trước, cũng chẳng cho là thật có bố thí Ba La Mật Đa, đối với tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã Ba La Mật Đa, chẳng thọ, chẳng thủ, chẳng chấp, chẳng trước, cũng chẳng cho là thật có tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã Ba La Mật Đa. Bạch Thế Tôn Các Đại Bồ Tát Tu Hành Bát Nhã Ba La Mật Đa, khi Quán Các Pháp, đối với bốn tình lự chẳng thọ, chẳng thủ, chẳng chấp, chẳng trước, cũng chẳng cho là thật có bốn tình lự, đối với bốn vô lượng, bốn định vô sắc, chẳng thọ, chẳng thủ, chẳng chấp, chẳng trước, cũng chẳng cho là thật có bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Bạch Thế Tôn Các Đại Bồ Tát Tu Hành Bát Nhã Ba La Mật Đa, khi Quán Các Pháp, đối với tám giải thoát chẳng thọ, chẳng thủ, chẳng chấp, chẳng trước, cũng chẳng cho là thật có tám giải thoát, đối với tám thắng sướng, chính định thứ đệ, mười biến sướng, chẳng thọ, chẳng thủ, chẳng chấp, chẳng trước, cũng chẳng cho là thật có tám thắng sướng, chính định thứ đệ, mười biến sướng. Bạch Thế Tôn Các Đại Bồ Tát Tu Hành Bát Nhã Ba La Mật Đa, khi Quán Các Pháp, đối với bốn niệm trụ chẳng thọ, chẳng thủ, chẳng chấp, chẳng trước, cũng chẳng cho là thật có bốn niệm trụ, đối với bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căng, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo, chẳng thọ, chẳng thủ, chẳng chấp, chẳng trước, cũng chẳng cho là thật có bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo. Bạch Thế Tôn Các Đại Bồ Tát Tu Hành Bát Nhã Ba La Mật Đa, khi Quán Các Pháp, đối với pháp môn giải thoát không chẳng thọ, chẳng thủ, chẳng chấp, chẳng trước, cũng chẳng cho là thật có pháp môn giải thoát không, đối với pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện, chẳng thọ, chẳng thủ, chẳng chấp, chẳng trước, cũng chẳng cho là thật có pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện. Bạch Thế Tôn Các Đại Bồ Tát Tu Hành Bát Nhã Ba La Mật Đa, khi Quán Các Pháp, đối với năm loại mắt chẳng thọ, chẳng thủ, chẳng chấp, chẳng trước, cũng chẳng cho là thật có năm loại mắt, đối với sáu phép thần thông, chẳng thọ, chẳng thủ, chẳng chấp, chẳng trước, cũng chẳng cho là thật có sáu phép thần thông. Bạch Thế Tôn Các Đại Bồ Tát Tu Hành Bát Nhã Ba La Mật Đa, khi Quán Các Pháp, đối với mười lực của Phật chẳng thọ, chẳng thủ, chẳng chấp, chẳng trước, cũng chẳng cho là thật có mười lực của Phật, đối với bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại tư, đại bi, đại hỷ, đại xã, mười tám pháp Phật bất cộng, chẳng thọ, chẳng thủ, chẳng chấp, chẳng trước, cũng chẳng cho là thật có bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Bạch Thế Tôn Các Đại Bồ Tát Tu Hành Bát Nhã Ba La Mật Đa, khi Quán Các Pháp, đối với chân như chẳng thọ, chẳng thủ, chẳng chấp, chẳng trước, cũng chẳng cho là thật có chân như đối với pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đội khác, tánh bình đẳng, tánh ly xanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tương nhị, chẳng thọ, chẳng thủ, chẳng chấp, chẳng trước, cũng chẳng cho là thật có pháp giới cho đến cảnh giới bất tương nhị. Các Đại Bồ Tát Tu Hành Bát Nhã Ba La Mật Đa, khi Quán Các Pháp, đối với quả vị giác ngộ cao tộc chẳng thọ, chẳng thủ, chẳng chấp, chẳng trước, cũng chẳng cho là thật có quả vị giác ngộ cao tộc đối với trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, chẳng thọ, chẳng thủ, chẳng chấp, chẳng trước, cũng chẳng cho là thật có trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Bạch Thế Tôn Các Đại Bồ Tát Tu Hành Bát Nhã Ba La Mật Đa, khi Quán Các Pháp, đối với pháp không quên mất chẳng thọ, chẳng thủ, chẳng chấp, chẳng trước, cũng chẳng cho là thật có pháp không quên mất đối với tánh luôn luôn xã, chẳng thọ, chẳng thủ, chẳng chấp, chẳng trước, cũng chẳng cho là thật có tánh luôn luôn xã. Bạch Thế Tôn Các Đại Bồ Tát Tu Hành Bát Nhã Ba La Mật Đa, khi Quán Các Pháp, đối với tất cả pháp môn Đà La Ni chẳng thọ, chẳng thủ, chẳng chấp, chẳng trước, cũng chẳng cho là thật có tất cả pháp môn Đà La Ni, đối với tất cả pháp môn Tam Ma Địa, chẳng thọ, chẳng thủ, chẳng chấp, chẳng trước, cũng chẳng cho là thật có tất cả pháp môn Tam Ma Địa. Bạch Thế Tôn Các Đại Bồ Tát khi Tu Hành Bát Nhã Ba La Mật Đa, chẳng thấy sắc. Vì sao? Vì tánh của sắc là không, không sanh diệt. Chẳng thấy thọ, tưởng, hành, thức. Vì sao? Vì tánh của thọ, tưởng, hành, thức là không, không sanh diệt. Bạch Thế Tôn Các Đại Bồ Tát khi Tu Hành Bát Nhã Ba La Mật Đa, chẳng thấy nhãn xứ. Vì sao? Vì tánh của nhãn xứ là không, không sanh diệt. Chẳng thấy nhĩ, tỉ, thiệt, thần, ý xứ. Vì sao? Vì tánh của nhĩ, tỉ, thiệt, thần, ý xứ là không, không sanh diệt. Bạch Thế Tôn Các Đại Bồ Tát khi Tu Hành Bát Nhã Ba La Mật Đa, chẳng thấy sắc xứ. Vì sao? Vì tánh của sắc xứ là không, không sanh diệt. Chẳng thấy thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ. Vì sao? Vì tánh của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là không, không sanh diệt. Bạch Thế Tôn Các Đại Bồ Tát khi Tu Hành Bát Nhã Ba La Mật Đa, chẳng thấy nhãn giới. Vì sao? Vì tánh của nhãn giới là không, không sanh diệt. Chẳng thấy sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra. Vì sao? Vì tánh của sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là không, không sanh diệt. Bạch Thế Tôn Các Đại Bồ Tát khi Tu Hành Bát Nhã Ba La Mật Đa, chẳng thấy nhãn giới. Vì sao? Vì tánh của nhãn giới là không, không sanh diệt. Chẳng thấy sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra. Vì sao? Vì tánh của sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là không, không sanh diệt. Bạch Thế Tôn Các Đại Bồ Tát khi Tu Hành Bát Nhã Ba La Mật Đa, chẳng thấy tỉ giới. Vì sao? Vì tánh của tỉ giới là không, không sanh diệt. Chẳng thấy hương giới, tỉ thức giới và tỉ xúc cùng các thọ do tỉ xúc làm duyên sanh ra. Vì sao? Vì tánh của hương giới cho đến các thọ do tỉ xúc làm duyên sanh ra là không, không sanh diệt. Bạch Thế Tôn Các Đại Bồ Tát khi Tu Hành Bát Nhã Ba La Mật Đa, chẳng thấy thiệt giới. Vì sao? Vì tánh của thiệt giới là không, không sanh diệt. Chẳng thấy vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra. Vì sao? Vì tánh của vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra là không, không sanh diệt. Bạch Thế Tôn Các Đại Bồ Tát khi Tu Hành Bát Nhã Ba La Mật Đa, chẳng thấy thân giới. Vì sao? Vì tánh của thân giới là không, không sanh diệt. Chẳng thấy xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra. Vì sao? Vì tánh của xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra là không, không sanh diệt. Bạch Thế Tôn Các Đại Bồ Tát khi Tu Hành Bát Nhã Ba La Mật Đa, chẳng thấy ý giới. Vì sao? Vì tánh của ý giới là không, không sanh diệt. Chẳng thấy pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra. Vì sao? Vì tánh của pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra là không, không sanh diệt. Bạch Thế Tôn Các Đại Bồ Tát khi Tu Hành Bát Nhã Ba La Mật Đa, chẳng thấy địa giới. Vì sao? Vì tánh của địa giới là không, không sanh diệt. Chẳng thấy thủy, hỏa, phong, không, thức giới. Vì sao? Vì tánh của thủy, hỏa, phong, không, thức giới là không, không sanh diệt. Bạch Thế Tôn Các Đại Bồ Tát khi Tu Hành Bát Nhã Ba La Mật Đa, chẳng thấy thánh đế khổ. Vì sao? Vì tánh của thánh đế khổ là không, không sanh diệt. Chẳng thấy thánh đế tập, diệt, đạo. Vì sao? Vì tánh của thánh đế tập, diệt, đạo là không, không sanh diệt. Bạch Thế Tôn Các Đại Bồ Tát khi Tu Hành Bát Nhã Ba La Mật Đa, chẳng thấy vô minh. Vì sao? Vì tánh của vô minh là không, không sanh diệt. Chẳng thấy hành, thức, danh sách, luật sứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, thang, khổ, ưu, não. Vì sao? Vì tánh của hành cho đến lão tử, sầu, thang, khổ, ưu, não là không, không sanh diệt. Bạch Thế Tôn Các Đại Bồ Tát khi Tu Hành Bát Nhã Ba La Mật Đa, chẳng thấy cái không nội. Vì sao? Vì tánh của cái không nội là không, không sanh diệt. Chẳng thấy cái không ngoại, cái không nội ngoại, cái không không, cái không lớn, cái không thắng nghĩa, cái không hữu vi, cái không vô vi, cái không đốt tráo, cái không không biên giới, cái không tảng mạng, cái không không nội khác, cái không bản tánh, cái không tự tướng, cái không tổng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái không tự tướng, cái không tổng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái không không tánh, cái không tự tánh, cái không không tánh tự tánh. Vì sao? Vì tánh của cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh là không, không sanh diệt. Bạch Thế Tôn Các Đại Bồ Tát khi Tu Hành Bát Nhã Ba La Mật Đa, chẳng thấy bố thí Ba La Mật Đa. Vì sao? Vì tánh của bố thí Ba La Mật Đa là không, không sanh diệt. Chẳng thấy tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, bát nhã Ba La Mật Đa. Vì sao? Vì tánh của tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, bát nhã Ba La Mật Đa là không, không sanh diệt. Bạch Thế Tôn Các Đại Bồ Tát khi Tu Hành Bát Nhã Ba La Mật Đa, chẳng thấy bốn tịnh lự. Vì sao? Vì tánh của bốn tịnh lự là không, không sanh diệt. Chẳng thấy bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Vì sao? Vì tánh của bốn vô lượng, bốn định vô sắc là không, không sanh diệt. Bạch Thế Tôn Các Đại Bồ Tát khi Tu Hành Bát Nhã Ba La Mật Đa, chẳng thấy tám giải thoát. Vì sao? Vì tánh của tám giải thoát là không, không sanh diệt. Chẳng thấy tám thắng xứ, chính định thứ đệ, mười biến xứ. Vì sao? Vì tánh của tám thắng xứ, chính định thứ đệ, mười biến xứ là không, không sanh diệt. Bạch Thế Tôn Các Đại Bồ Tát khi Tu Hành Bát Nhã Ba La Mật Đa, chẳng thấy bốn niệm trụ. Vì sao? Vì tánh của bốn niệm trụ là không, không sanh diệt. Chẳng thấy bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căng, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo. Vì sao? Vì tánh của bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo là không, không sanh diệt. Bạch Thế Tôn Các Đại Bồ Tát khi Tu Hành Bát Nhã Ba La Mật Đa, chẳng thấy pháp môn giải thoát không. Vì sao? Vì tánh của pháp môn giải thoát không là không, không sanh diệt. Chẳng thấy pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện. Vì sao? Vì tánh của pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện là không, không sanh diệt. Bạch Thế Tôn Các Đại Bồ Tát khi Tu Hành Bát Nhã Ba La Mật Đa, chẳng thấy năm loại mắt. Vì sao? Vì tánh của năm loại mắt là không, không sanh diệt. Chẳng thấy sáu phép thần thông. Vì sao? Vì tánh của sáu phép thần thông là không, không sanh diệt. Bạch Thế Tôn Các Đại Bồ Tát khi Tu Hành Bát Nhã Ba La Mật Đa, chẳng thấy mười lực của Phật. Vì sao? Vì tánh của mười lực của Phật là không, không sanh diệt. Chẳng thấy bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại phả, mười tám pháp Phật bất cộng. Vì sao? Vì tánh của bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng là không, không sanh diệt. Bạch Thế Tôn Các Đại Bồ Tát khi Tu Hành Bát Nhã Ba La Mật Đa, chẳng thấy chân như. Vì sao? Vì tánh của chân như là không, không sanh diệt. Chẳng thấy pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thực tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tương nghị. Vì sao? Vì tánh của pháp giới cho đến cảnh giới bất tương nghị là không, không sanh diệt. Bạch Thế Tôn Các Đại Bồ Tát khi Tu Hành Bát Nhã Ba La Mật Đa, chẳng thấy quả vị giác ngộ cao tột. Vì sao? Vì tánh của quả vị giác ngộ cao tột là không, không sanh diệt. Chẳng thấy trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Vì sao? Vì tánh của trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng là không, không sanh diệt. Bạch Thế Tôn Các Đại Bồ Tát khi Tu Hành Bát Nhã Ba La Mật Đa, chẳng thấy pháp không quên mất. Vì sao? Vì tánh của pháp không quên mất là không, không sanh diệt. Chẳng thấy tánh luôn luôn xả. Vì sao? Vì tánh của tánh luôn luôn xả là không, không sanh diệt. Bạch Thế Tôn Các Đại Bồ Tát khi Tu Hành Bát Nhã Ba La Mật Đa, chẳng thấy tất cả pháp Môn Đà La Ni. Vì sao? Vì tánh của tất cả pháp Môn Đà La Ni là không, không sanh diệt. Chẳng thấy tất cả pháp Môn Tam Ma Địa. Vì sao? Vì tánh của tất cả pháp Môn Tam Ma Địa là không, không sanh diệt. Sắc chẳng sanh thì chẳng phải là sắc thọ, tưởng, hành, thức chẳng sanh thì chẳng phải là thọ, tưởng, hành, thức. Vì sao? Vì sắc cùng với chẳng sanh không hai, không hai phần. Thọ, tưởng, hành, thức cùng với chẳng sanh không hai, không hai phần. Vì sao? Vì pháp chẳng sanh chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Cho nên sắc chẳng sanh thì chẳng phải là sắc thọ, tưởng, hành, thức chẳng sanh thì chẳng phải là thọ, tưởng, hành, thức. Bạch Thế Tôn Nhãn xứ chẳng sanh thì chẳng phải là nhãn xứ, nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý xứ chẳng sanh thì chẳng phải là nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý xứ. Vì sao? Vì nhãn xứ cùng với chẳng sanh không hai, không hai phần. Nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý xứ cùng với chẳng sanh không hai, không hai phần. Vì sao? Vì pháp chẳng sanh chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Cho nên nhãn xứ chẳng sanh thì chẳng phải là nhãn xứ, nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý xứ chẳng sanh thì chẳng phải là nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý xứ. Bạch Thế Tôn Sắc xứ chẳng sanh thì chẳng phải là sắc xứ, thanh, hương, vị, xuất, pháp xứ chẳng sanh thì chẳng phải là thanh, hương, vị, xuất, pháp xứ. Vì sao? Vì sắc xứ cùng với chẳng sanh không hai, không hai phần. Thanh, hương, vị, xuất, pháp xứ cùng với chẳng sanh không hai, không hai phần. Vì sao? Vì pháp chẳng sanh chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Cho nên sắc xứ chẳng sanh thì chẳng phải là sắc xứ, thanh, hương, vị, xuất, pháp xứ chẳng sanh thì chẳng phải là thanh, hương, vị, xuất, pháp xứ. Bạch Thế Tôn Nhãn giới chẳng sanh thì chẳng phải là nhãn giới, sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xuất cùng các thọ do nhãn xuất làm duyên sanh ra chẳng sanh thì chẳng phải là sắc giới cho đến các thọ do nhãn xuất làm duyên sanh ra. Vì sao? Vì nhãn giới cùng với chẳng sanh không hai, không hai phần. Sắc giới cho đến các thọ do nhãn xuất làm duyên sanh ra cùng với chẳng sanh không hai, không hai phần. Vì sao? Vì pháp chẳng sanh, chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Cho nên nhãn giới chẳng sanh thì chẳng phải là nhãn giới, sắc giới cho đến các thọ do nhãn xuất làm duyên sanh ra chẳng sanh thì chẳng phải là sắc giới cho đến các thọ do nhãn xuất làm duyên sanh ra. Bạch Thế Tôn Nhãn giới chẳng sanh thì chẳng phải là nhãn giới, thanh giới, nhãn xuất giới và nhãn xuất cùng các thọ do nhãn xuất làm duyên sanh ra chẳng sanh thì chẳng phải là thanh giới cho đến các thọ do nhãn xuất làm duyên sanh ra. Vì sao? Vì nhãn giới cùng với chẳng sanh không hai, không hai phần. Thanh giới cho đến các thọ do nhãn xuất làm duyên sanh ra cùng với chẳng sanh không hai, không hai phần. Vì sao? Vì pháp chẳng sanh chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Cho nên nhãn giới chẳng sanh thì chẳng phải là nhãn giới, thanh giới cho đến các thọ do nhãn xuất làm duyên sanh ra chẳng sanh thì chẳng phải là thanh giới cho đến các thọ do nhãn xuất làm duyên sanh ra. Bạch Thế Tôn Tỉ giới chẳng sanh thì chẳng phải là tỉ giới, hương giới, tỉ thức giới và tỉ xuất cùng các thọ do tỉ xuất làm duyên sanh ra chẳng sanh thì chẳng phải là hương giới cho đến các thọ do tỉ xuất làm duyên sanh ra. Vì sao? Vì tỉ giới cùng với chẳng sanh không hai, không hai phần. Hương giới cho đến các thọ do tỉ xuất làm duyên sanh ra cùng với chẳng sanh không hai, không hai phần. Vì sao? Vì pháp chẳng sanh, chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Cho nên tỉ giới chẳng sanh thì chẳng phải là tỉ giới, hương giới cho đến các thọ do tỉ xuất làm duyên sanh ra chẳng sanh thì chẳng phải là hương giới cho đến các thọ do tỉ xuất làm duyên sanh ra. Bạch Thế Tôn Tỉ giới chẳng sanh thì chẳng phải là tỉ giới, vị giới, tỉ thức giới và tỉ xuất cùng các thọ do tỉ xuất làm duyên sanh ra chẳng sanh thì chẳng phải là vị giới cho đến các thọ do tỉ xuất làm duyên sanh ra. Vì sao? Vì tỉ giới cùng với chẳng sanh không hai, không hai phần. Vị giới cho đến các thọ do tỉ xuất làm duyên sanh ra cùng với chẳng sanh không hai, không hai phần. Vì sao? Vì pháp chẳng sanh, chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Cho nên tỉ giới chẳng sanh thì chẳng phải là tỉ giới, vị giới cho đến các thọ do tỉ xuất làm duyên sanh ra chẳng sanh thì chẳng phải là vị giới cho đến các thọ do tỉ xuất làm duyên sanh ra. Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Thức giới cùng với chẳng sanh không hai, không hai phần. Vì sao? Vì Pháp chẳng sanh, chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Cho nên địa giới chẳng sanh, thì chẳng phải là địa giới, thủy, hỏa, phong, không. Thức giới chẳng sanh, thì chẳng phải là thủy, hỏa, phong, không. Thức giới Bạch Thế Tôn Thánh đế khổ chẳng sanh thì chẳng phải là thánh đế khổ, thánh đế tập, diệt, đạo chẳng sanh, thì chẳng phải là thánh đế tập, diệt, đạo. Vì sao? Vì thánh đế khổ cùng với chẳng sanh không hai, không hai phần. Thánh đế tập, diệt, đạo cùng với chẳng sanh không hai, không hai phần. Vì sao? Vì Pháp chẳng sanh, chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Cho nên thánh đế khổ chẳng sanh thì chẳng phải là thánh đế khổ, thánh đế tập, diệt, đạo chẳng sanh, thì chẳng phải là thánh đế tập, diệt, đạo. Bạch Thế Tôn Vô minh chẳng sanh thì chẳng phải là vô minh, hành, thức, danh sách, lục sứ, xuất, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, thang, khổ, ưu, não chẳng sanh, thì chẳng phải là hành cho đến lão tử, sầu, thang, khổ, ưu, não. Vì sao? Vì vô minh cùng với chẳng sanh không hai, không hai phần. Hành cho đến lão tử, sầu, thang, khổ, ưu, não cùng với chẳng sanh không hai, không hai phần. Vì sao? Vì pháp chẳng sanh, chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Cho nên vô minh chẳng sanh thì chẳng phải là vô minh, hành cho đến lão tử, sầu, thang, khổ, ưu, não chẳng sanh, thì chẳng phải là hành cho đến lão tử, sầu, thang, khổ, ưu, não. Bạch Thế Tôn Cái không nội chẳng sanh thì chẳng phải là cái không nội, cái không ngoại, cái không nội ngoại, cái không không, cái không lớn, cái không thắng nhĩa, cái không hữu vi, cái không vô vi, cái không đốt tráo, cái không không biên giới, cái không tảng mạng, cái không không đội khác, cái không bản tánh, cái không tự tướng, cái không tổng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái không không tánh, cái không tự tánh, cái không không tánh tự tánh chẳng sanh, thì chẳng phải là cái. Không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh. Vì sao? Vì cái không nội cùng với chẳng sanh không 2, không 2 phần. Cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh cùng với chẳng sanh không 2, không 2 phần. Vì sao? Vì pháp chẳng sanh, chẳng phải 1, chẳng phải 2, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Cho nên cái không nội chẳng sanh, thì chẳng phải là cái không nội, cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh chẳng sanh, thì chẳng phải là cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh.