Details
Nothing to say, yet
Big christmas sale
Premium Access 35% OFF
Nothing to say, yet
Kinh Đại Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa Tập 14, Quyển 331 Ly Phẩm Hạnh Nguyện 02 Lại nữa, Thiện Hiện Có Đại Bồ-Tát tu đủ sáu phép Ba-La-Mật-Đa, thấy các hữu tình bị hệ thuộc người làm chủ, có làm việc gì chẳng được tự do. Này Thiện Hiện Đại Bồ-Tát ấy, thấy việc đó rồi, nghĩ thế này, ta nên làm thế nào để phương tiện cứu giúp các loại hữu tình khiến họ được tự do? Đã nghĩ vậy rồi, phát lời nguyện, ta phải tinh cần, chẳng tiếc thân mạng, tu hành sáu phép Ba-La-Mật-Đa, thành thuộc hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, khiến mau viên mãn, chống chứng quả vị giác ngộ cao tột. Trong cõi Phật của ta, không có ai làm chủ, ai muốn làm việc gì đều được tự do, cho đến chẳng thấy hình tượng chủ tể, cũng chẳng nghe danh tự chủ tể, chỉ có như lại ứng chánh đẳng giác dùng pháp thống nhất gọi là pháp vương. Này Thiện Hiện Đại Bồ-Tát ấy do sáu phép Ba-La-Mật-Đa này, mau được viên mãn, gần gũi quả vị giác ngộ cao tột. Lại nữa, Thiện Hiện Có Đại Bồ-Tát tu đủ sáu phép Ba-La-Mật-Đa, thấy các hữu tình có các đường sai biệt. Này Thiện Hiện Đại Bồ-Tát ấy thấy việc đó rồi, nghĩ thế này, ta nên làm thế nào để phương tiện cứu giúp các loại hữu tình khiến không có các đường thiện ác sai biệt? Đã nghĩ vậy rồi, phát lời nguyện, ta phải tinh trần, chẳng tiếc thân mạng, tu hành sáu phép Ba-La-Mật-Đa, thành thuộc hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, khiến mau viên mãn, chống chứng quả vị giác ngộ cao tột. Trong cõi Phật của ta, không có các đường thiện ác sai biệt, cho đến không có danh tự địa ngục, bàn xanh, quỷ giới, à tố lạc, nhân, thiên. Tất cả hữu tình đều cùng một loại, cùng tu một Pháp đó là cùng hòa hợp tu hành bố thí Ba-La-Mật-Đa, tu hành tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, bác nhã Ba-La-Mật-Đa, an trụ Pháp không nội, an trụ Pháp không ngoại, Pháp không nội ngoại, Pháp không không, Pháp không lớn, Pháp không thắng nghĩa, Pháp không hữu vi, Pháp không vô vi, Pháp không rốt tráo, Pháp không không biên giới, Pháp không tảng mạng, Pháp không không đổi khác, Pháp không bản tánh, Pháp không tự tướng, Pháp không tổng tướng, Pháp không tất cả Pháp, Pháp không chẳng thể nắm bắt được, Pháp không không tánh, Pháp không tự tánh, Pháp không không tánh tự tánh, an trụ chân như, an trụ Pháp giới, Pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly xanh, Pháp định, Pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tương nghi, tu hành 4 niệm trụ, tu hành 4 chánh đoạn, 4 thần túc, 5 căng, 5 lực, 7 chi đẳng giác, 8 chi thánh đạo, an trụ thánh đế khổ, an trụ thánh đế tập, diệt, đạo, tu hành 4 tịnh lự, tu hành 4 vô lượng, 4 định vô sắc, tu hành 8 giải thoát, tu hành 8 thắng sướng, 9 định thứ đệ, 10 biến sướng, tu hành Pháp môn giải thoát không, tu hành Pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện, tu hành 5 loại mắt, tu hành 6 phép thần không, tu hành Pháp môn Tamma-địa, tu hành Pháp môn Đà-la-ni, tu hành 10 lực Phật, tu hành 4-4 điều không sợ, 4 sự hiểu biết thông suốt, đại tử, đại bi, đại hỷ, đại xã, 18 Pháp Phật bất cộng, tu hành Pháp không quên, mất, tu hành tánh luôn luôn xã, tu hành trí nhất thiết, tu hành trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, tu hành hành đại Bồ-Tát, tu hành quả vị giác ngộ cao tột của chiêu Phật. Này thiện hiện! Đại Bồ-Tát ấy do 6 phép Palamudda này mà mau được viên mãng, gần quủy quả vị giác ngộ cao tột. Lại nữa, thiện hiện! Có đại Bồ-Tát tu rũ 6 phép Palamudda, thấy các hữu tình có 4 loại sai biệt, 1 là nhoảng xanh, 2 là thai xanh, 3 là thắp xanh, 4 là hóa xanh. Này thiện hiện! Đại Bồ-Tát ấy thấy việc đó rồi, nghĩ thế này, ta nên làm thế nào để phương tiện cứu giúp các loại hữu tình, khiến không có 4 loại sai biệt như thế? Đã nghĩ vậy rồi, phát lời nguyện, ta phải tinh cần, chẳng tiếc thân mạng, tu hành 6 phép Palamudda, thành thuộc hữu tình, nhiên tịnh cõi Phật, khiến mau viên mãng, chống chính quả vị giác ngộ cao tột. Trong cõi Phật của ta, không có 4 loại hữu tình sai biệt như thế. Các loại hữu tình đều cùng hóa xanh. Này thiện hiện! Đại Bồ-Tát ấy do 6 phép Palamudda này, mau được viên mãng, gần gũi quả vị giác ngộ cao tột. Lại nữa, thiện hiện! Có đại Bồ-Tát tu rũ 6 phép Palamudda, thấy các hữu tình không có 5 loại thần thông, đối với việc làm không được tự tại. Này thiện hiện! Đại Bồ-Tát ấy thấy việc đó rồi, nghĩ thế này, ta nên làm thế nào để phương tiện cứu giúp các loại hữu tình đều khiến đạt được 5 tuệ thần thông? Đã nghĩ vậy rồi, phát lời nguyện, ta phải tinh cần, chẳng tiếc thân mạng, tu hành 6 phép Palamudda, thành thuộc hữu tình, nhiên tịnh cõi Phật, khiến mau viên mãng, chống chính quả vị giác ngộ cao tột. Trong cõi Phật của ta, các loại hữu tình có 5 tuệ thần thông đều được tự tại. Này thiện hiện! Đại Bồ-Tát ấy do 6 phép Palamudda này, mau được viên mãng, gần gũi quả vị giác ngộ cao tột. Lại nữa, thiện hiện! Có đại Bồ-Tát tu rũ 6 phép Palamudda, thấy các hữu tình thọ dùng đoàn thực, thân có các thứ đại tiểu tiện, máu mũ hôi thối, thật đáng chán bỏ. Này thiện hiện! Đại Bồ-Tát ấy thấy việc đó rồi, nghĩ thế này, ta nên làm thế nào để cứu giúp các loại hữu tình thọ dùng đoàn thực như thế, khiến trong thân họ không có các loại dơ quế. Đã nghĩ vậy rồi, phát lời nguyện, ta phải tinh cần, chẳng tiếc thân mạng, tu hành 6 phép Palamudda, thành thuộc hữu tình, nhiên tịnh cõi Phật, khiến mau viên mãng, chống chính quả vị giác ngộ cao tột. Trong cõi Phật của ta, các hữu tình đều cùng thọ dùng món an diệu pháp thỉ, thân thể thân sạch, không có các việc đại tiểu tiện dơ quế. Này thiện hiện! Đại Bồ-Tát ấy do 6 phép Palamudda này, mau được viên mãng, gần gũi quả vị giác ngộ cao tột. Lại nữa, thiện hiện! Có Đại Bồ-Tát tu rũ 6 phép Palamudda, thấy các hữu tình thân không ánh sáng, có làm việc gì phải nhờ đến ánh sáng bên ngoài. Này thiện hiện! Đại Bồ-Tát ấy thấy việc đó rồi, nghĩ thế này, ta phải làm thế nào để phương tiện cứu giúp các loại hữu tình, khiến trời bỏ thân không ánh sáng như thế? Đã nghĩ vậy rồi, phát lời nguyện, ta phải tinh cần, chẳng tiếc thân mạng, tu hành 6 phép Palamudda, thành thuộc hữu tình, nhiên tịnh cõi Phật, khiến mau viên mãng, chống chính quả vị giác ngộ cao tột. Trong cõi Phật của ta, thân các loại hữu tình đầy đủ ánh sáng, chẳng nhờ ánh sáng bên ngoài. Này thiện hiện! Đại Bồ-Tát ấy do 6 phép Palamudda này, mau được viên mãng, gần gũi quả vị giác ngộ cao tột. Lại nữa, thiện hiện! Có Đại Bồ-Tát tu rũ 6 phép Palamudda, thấy nơi cương ngụ của các hữu tình có ngày có đêm, có tháng nửa tháng, thời tiết số năm, chuyển biến chẳng thương. Này thiện hiện! Đại Bồ-Tát ấy thấy việc đó rồi, nghĩ thế này, ta phải làm thế nào để phương tiện cứu giúp các loại hữu tình, khiến chỗ ở của họ không có ngày đêm và các việc thay đổi? Đã nghĩ vậy rồi, phát lời nguyện, ta phải tinh trần, chẳng tiếc thân mạng, tu hành 6 phép Palamudda, thành thuộc hữu tình, nhiên tịnh cõi Phật, khiến mau viên mãng, chống chính quả vị giác ngộ cao tột. Trong cõi Phật của ta, không có ngày đêm, và tháng nửa tháng, thời tiết năm số cho đến không có từng ngày, đêm về, về. Này thiện hiện! Đại Bồ-Tát ấy do 6 phép Palamudda này, mau được viên mãng, gần gũi quả vị giác ngộ cao tột. Lại nữa, thiện hiện! Có Đại Bồ-Tát tu rũ 6 phép Palamudda, thấy các hữu tình tuổi thọ ngắn ngũi. Này thiện hiện! Đại Bồ-Tát ấy thấy việc đó rồi, nghĩ thế này, ta phải làm thế nào để phương tiện cứu giúp các loại hữu tình, khiến xa lìa tuổi thọ ngắn ngũi như thế? Đã nghĩ vậy rồi, phát lời nguyện, ta phải tinh trần, chẳng tiếc thân mạng, tu hành 6 phép Palamudda, thành thuộc hữu tình, nhiên tịnh cõi Phật, khiến mau viên mãng, chống chính quả vị giác ngộ cao tột. Trong cõi Phật của ta, tuổi thọ của các loại hữu tình dài lâu, khó biết kiếp số. Này thiện hiện! Đại Bồ-Tát ấy do 6 phép Palamudda này, mau được viên mãng, gần gũi quả vị giác ngộ cao tột. Lại nữa, thiện hiện! Có Đại Bồ-Tát tu rũ 6 phép Palamudda, thấy các hữu tình không có các tướng tốt. Này thiện hiện! Đại Bồ-Tát ấy thấy việc đó rồi, nghĩ thế này, ta phải làm thế nào để phương tiện cứu giúp các loại hữu tình khiến được tướng tốt? Đã nghĩ vậy rồi, phát lời nguyện, ta phải tinh trần, chẳng tiếc thân mạng, tu hành 6 phép Palamudda, thành thuộc hữu tình, nhiên tịnh cõi Phật, khiến mau viên mãng, chống chính quả vị giác ngộ cao tột. Trong cõi Phật của ta, các loại hữu tình đủ 32 tướng đại trượng phu, 80 vẻ đẹp phụ thuộc viên mãng trang nghiêm, hữu tình trông thấy sanh niềm vui thanh thoát. Này thiện hiện! Đại Bồ-Tát ấy do 6 phép Palamudda này, mau được viên mãng, gần gũi quả vị giác ngộ cao tột. Lại nữa, thiện hiện! Có Đại Bồ-Tát tu rũ 6 phép Palamudda, thấy loại hữu tình xa lị các căng lành. Này thiện hiện! Đại Bồ-Tát ấy thấy việc đó rồi, nghĩ thế này, ta phải làm thế nào để phương tiện cứu giúp các loại hữu tình như thế khiến đủ căng lành? Đã nghĩ vậy rồi, phát lời nguyện, ta phải tinh cần, chẳng tiếc thân mạng, tu hành 6 phép Palamudda, thành thuộc hữu tình, nhiên tịnh cõi Phật, khiến mau viên mãng, chống chính quả vị giác ngộ cao tột. Trong cõi Phật của ta, các loại hữu tình, tất cả đều thành tựu căng lành vi diệu thù thắng. Do căng lành này, thường sắm sửa các món cúng dường thượng diệu để cúng dường chư Phật, nương vào phước lực này, tùy theo chỗ thòa sanh, lại thường cúng dường chư Phật thế tôn. Này thiện hiện! Đại Bồ-Tát ấy do 6 phép Palamudda này, mau được viên mãng, gần gũi quả vị giác ngộ cao tột. Lại nữa, thiện hiện! Có Đại Bồ-Tát tu đủ 6 phép Palamudda, thấy các hữu tình có đủ các bệnh về thân tâm, thân bệnh có 4, 1 là bệnh phong, 2 là bệnh nhiệt, 3 là bệnh đạm, 4 là đủ các loại bệnh phức tạp về phong. Tâm bệnh cũng có 4, 1 là bệnh tham, 2 là bệnh sân, 3 là bệnh si, 4 là bệnh mạng V, V, các thứ bệnh phiền não. Này thiện hiện! Đại Bồ-Tát ấy thấy việc đó rồi, nghĩ thế này, ta phải làm thế nào để cứu giúp các loại hữu tình có bệnh khổ thân, tâm như thế? Đã nghĩ vậy rồi, phát lời nguyện, ta phải tinh trần, chẳng tiếc thân mạng, tu hành 6 phép Palamudda, thành thuộc hữu tình, nhiêm tình cõi Phật, khiến mau viên mãng, chống chứng quả vị giác ngộ cao tột. Trong cõi Phật của ta, các loại hữu tình, thân tâm thanh tịnh, không có nỗi khổ về bệnh, cho đến không nghe tên của các bệnh phong, nhiệt, đạm, và các bệnh phong phức tạp khác, cũng chẳng nghe các bệnh phiền não như tham, sân, si, mạng V, V. Này thiện hiện! Đại Bồ Tát ấy do 6 phép Palamudda này, mau được viên mãng, gần gũi quả vị giác ngộ cao tột. Lại nữa, thiện hiện! Có Đại Bồ Tát tu đủ 6 phép Palamudda, thấy có hữu tình có đủ các ý thích, hoặc có người thích hướng đến thanh văn thừa, hoặc có người thích hướng đến độc giác thừa, hoặc có người thích hướng đến vô thượng thừa. Này thiện hiện! Đại Bồ Tát ấy thấy việc đó rồi, nghĩ thế này, ta phải làm thế nào để phương tiện cứu giúp các loại hữu tình, khiến từ bỏ ý thích hướng đến thanh văn, độc giác thừa, chỉ khiến thích hướng đến vô thượng đại thừa. Đã nghĩ vậy rồi, phát lời nguyện, ta phải tinh trần, chẳng tiếc thân mạng, tu hành 6 phép Palamudda, thành thuộc hữu tình, nhiên tình cõi Phật, khiến mau viên mãng, chống chính quả vị giác ngộ cao tột. Trong cõi Phật của ta, các loại hữu tình chỉ cầu quả vị giác ngộ cao tột, chẳng ưu quả thanh văn, độc giác thừa cho đến không có tên gì thừa, chỉ nghe các thứ công đức của đại thừa. Này thiện hiện! Đại Bồ Tát ấy do 6 phép Palamudda này, mau được viên mãng, gần gũi quả vị giác ngộ cao tột. Lại nữa, thiện hiện! Hổng tạp mà cho là ta thật sự xa lì lời nói thô ác, xa lì lời nói chia rẽ, xa lì lời nói hổng tạp, chưa có thể thật sự xa lì tham dục mà cho là ta thật sự xa lì tham dục, chưa có thể thật sự xa lì sân giận và xa lì tạ kiến mà cho là ta thật sự xa lì sân giận và xa lì tạ kiến, chưa đắc sơ thiền mà cho là đắc sơ thiền, chưa đắc đệ nhị, đệ tam, đệ tứ thiền mà cho là đắc đệ nhị, đệ tam, đệ tứ thiền, chưa đắc định không vô biên xứ mà cho là đắc định không vô biên xứ, tham, túc trụ, tùy niệm trí chính thông mà cho là đắc thiên nhãn, thiên nhĩ, tha tâm, túc trụ, tùy niệm trí chính thông, chưa đắc quán bất tịnh mà cho là đắc quán bất tịnh, chưa đắc quán lĩnh vực sai biệt của từ vi niệm tức duyên khởi mà cho là đắc quán lĩnh vực sai biệt của từ vi niệm tức duyên khởi, chưa đắc vật chỉ quán mà cho là đắc vật chỉ quán, chưa đắc vật chủng tánh, vật đệ bác, vật kiến, vật bạc, vật ly dục, vật dĩ biện mà cho là đắc vật chủng tánh, vật đệ bác, vật kiến, vật bạc, vật ly dục, vật dĩ biện, chưa đắc quả vị độc giác mà cho là đắc quả vị độc giác, chưa đắc bố thí ba la mật đa mà cho là đắc bố thí ba la mật đa, chưa đắc tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, bác nhã ba la mật đa mà cho là đắc tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, bác nhã ba la mật đa, chưa chính pháp không nội mà cho là chính pháp không nội, chưa chính pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tảng mạng, pháp không không đổi xác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không tổng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh mà cho là chính pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh, chưa chính chân như mà cho là chính chân như, chưa chính pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly xanh, pháp định, pháp trụ, thực tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghi mà cho là chính pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghi, chưa chính thánh đế khổ mà cho là chính thánh đế khổ, chưa chính thánh đế tập, việt, đạo mà cho là chính thánh đế tập, việt, đạo, chưa đắc bốn niệm trụ mà cho là đắc bốn niệm trụ, chưa đắc bốn chánh đoạn, bốn thần túc. Năm căng, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo mà cho là đắc bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo, chưa đắc bốn tình lựu mà cho là đắc bốn tình lựu, chưa đắc bốn vô lượng, bốn định vô sắc mà cho là đắc bốn vô lượng, bốn định vô sắc, chưa đắc tám giải thoát mà cho là đắc tám giải thoát, chưa đắc tám thắng sướng, chính định thứ đệ, mười biến sướng mà cho là đắc tám thắng sướng, chính định thứ đệ, mười biến sướng. Chưa đắc pháp môn giải thoát không mà cho là đắc pháp môn giải thoát không, chưa đắc pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện mà cho là đắc pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện, chưa đắc bật cực khỉ mà cho là đắc bật cực khỉ, chưa đắc bật ly cấu, bật phát quan, bật diệm tuệ, bật cực nang thắng, bật khiện tiền, bật viễn hành, bật bất động, bật thiện tuệ, bật pháp vân mà cho là đắc bật ly cấu cho đến bật pháp vân, chưa đắc năm loại mắt mà cho là đắc năm loại mắt, chưa đắc sáu phép thần thông mà. Chưa đắc sáu phép thần thông, chưa đắc pháp môn Tama Địa mà cho là đắc pháp môn Tama Địa, chưa đắc pháp môn Đà La Ni mà cho là đắc pháp môn Đà La Ni, chưa đắc mười lực Phật mà cho là đắc mười lực Phật, chưa đắc bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại tử, đại bi, đại hỷ, đại phả, mười tám pháp Phật bất cộng mà cho là đắc bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Chưa đắc pháp không quên mất mà cho là đắc pháp không quên mất, chưa đắc tánh luôn luôn xã mà cho là đắc tánh luôn luôn xã, chưa đắc trí nhất thiết mà cho là đắc trí nhất thiết, chưa đắc trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng mà cho là đắc trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, chưa nghiêm tịnh cõi Phật mà cho là nghiêm tịnh cõi Phật, chưa thành thuộc hữu tình mà cho là thành thuộc hữu tình, chưa hiểu kỹ nghệ khéo léo của thế gian mà cho là hiểu kỹ nghệ khéo léo của thế gian, chưa tu hành đại Bồ Tát mà cho là tu hành đại Bồ Tát. Chưa tu hành đại Bồ Tát, chưa đắc quả vị giác ngộ cao tột mà cho là đắc quả vị giác ngộ cao tột. Này thiện hiện! Đại Bồ Tát ấy thấy việc đó rồi, nghĩ thế này, ta phải làm thế nào để cứu giúp các loại hữu tình như thế, khiến họ xa lìa sự kết buộc của tăng thường mạng. Vì vậy rồi, phát lời nguyện, ta phải tinh cần, chẳng tiếc thân mạng, tu hành sáu phép Bala Mật Đa, thành thuộc hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, khiến mau viên mạng, chống chứng quả vị giác ngộ cao tột. Trong cõi Phật của ta, không có hạng tăng thường mạng như thế, tất cả hữu tình lìa tăng thường mạng. Này thiện hiện! Đại Bồ Tát ấy do sáu phép Bala Mật Đa này mau được viên mạng, gần gũi quả vị giác ngộ cao tột. Lại nữa, thiện hiện! Có Đại Bồ Tát tu đủ sáu phép Bala Mật Đa, thấy các hữu tình chấp trước các Pháp, đó là chấp trước sát, chấp trước thọ, tưởng, hành, thức, chấp trước nhãn xứ, chấp trước nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý xứ, chấp trước sát xứ, chấp trước thanh, hương, vị, xúc, Pháp xứ, chấp trước nhãn giới, chấp trước nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý giới, chấp trước sát giới, chấp trước thanh, hương, vị, xúc, Pháp giới, chấp trước nhãn thức giới, chấp trước nhĩ. Chấp trước nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý xứ giới, chấp trước nhãn xứ, chấp trước nhĩ. Tỉ, thiệt, thân, ý xứ, chấp trước các thọ do nhãn xứ làm duyên sanh ra, chấp trước các thọ do nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý xứ làm duyên sanh ra, chấp trước địa giới, chấp trước thủy, hỏa, phòng, không, thức giới, chấp trước tảnh nhân duyên, chấp trước tảnh đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên, chấp trước vô minh, chấp trước hành, thức, danh sách, luật sứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử. Chấp trước nhã, chấp trước hữu tình, dòng sanh mạng, khả năng sanh khởi, sự dưỡng dục, sự trưởng thành, chủ thể luân hồi, ý sanh, nho đồng, khả năng làm việc, khả năng thọ quả báo, cái biết, cái thấy, chấp trước bố thí ba la mật đa, chấp trước tình giới, an nhẫn, tinh tấn, tình lự, bác nhã ba la mật đa, chấp trước pháp không nội, chấp trước pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi. pháp không trốt tráo, pháp không không biên giới, pháp không tảng mạng, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không tổng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh, chấp trước chân như, chấp trước pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly xanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới hữu không. CẢNH GIỚI BẤT TƯ NGHÌ CẢNH GIỚI BẤT TƯ NGHÌ CẢNH GIỚI BẤT TƯ NGHÌ CẢNH GIỚI BẤT TƯ NGHÌ CẢNH GIỚI BẤT TƯ NGHÌ CẢNH GIỚI BẤT TƯ NGHÌ CẢNH GIỚI BẤT TƯ NGHÌ CẢNH GIỚI BẤT TƯ NGHÌ CẢNH GIỚI BẤT TƯ NGHÌ CẢNH GIỚI BẤT TƯ NGHÌ CẢNH GIỚI BẤT TƯ NGHÌ CẢNH GIỚI BẤT TƯ NGHÌ CẢNH GIỚI BẤT TƯ NGHÌ CẢNH GIỚI BẤT TƯ NGHÌ CẢNH GIỚI BẤT TƯ NGHÌ CẢNH GIỚI BẤT TƯ NGHÌ CẢNH GIỚI BẤT TƯ NGHÌ CẢNH GIỚI BẤT TƯ NGHÌ CẢNH GIỚI BẤT TƯ NGHÌ CẢNH GIỚI BẤT TƯ NGHÌ CẢNH GIỚI BẤT TƯ NGHÌ CẢNH GIỚI BẤT TƯ NGHÌ CẢNH GIỚI BẤT TƯ NGHÌ CẢNH GIỚI BẤT TƯ NGHÌ CẢNH GIỚI BẤT TƯ NGHÌ CẢNH GIỚI BẤT TƯ NGHÌ CẢNH GIỚI BẤT TƯ NGHÌ CẢNH GIỚI BẤT TƯ NGHÌ CẢNH GIỚI BẤT TƯ NGHÌ CẢNH GIỚI BẤT TƯ NGHÌ CẢNH GIỚI BẤT TƯ NGHÌ CẢNH GIỚI BẤT TƯ NGHÌ CẢNH GIỚI BẤT TƯ NGHÌ CẢNH GIỚI BẤT TƯ NGHÌ CẢNH GIỚI BẤT TƯ NGHÌ CẢNH GIỚI BẤT TƯ NGHÌ CẢNH GIỚI BẤT TƯ NGHÌ CẢNH GIỚI BẤT TƯ NGHÌ CẢNH GIỚI BẤT TƯ NGHÌ CẢNH GIỚI BẤT TƯ NGHÌ CẢNH GIỚI BẤT TƯ NGHÌ CẢNH GIỚI BẤT TƯ NGHÌ CẢNH GIỚI BẤT TƯ NGHÌ CẢNH GIỚI BẤT TƯ NGHÌ CẢNH GIỚI BẤT TƯ NGHÌ CẢNH GIỚI BẤT TƯ NGHÌ CẢNH GIỚI BẤT TƯ NGHÌ CẢNH GIỚI BẤT TƯ NGHÌ CẢNH GIỚI BẤT TƯ NGHÌ CẢNH GIỚI BẤT TƯ NGHÌ CẢNH GIỚI BẤT TƯ NGHÌ CẢNH GIỚI BẤT TƯ NGHÌ CẢNH GIỚI BẤT TƯ NGHÌ CẢNH GIỚI BẤT TƯ NGHÌ CẢNH GIỚI BẤT TƯ NGHÌ CẢNH GIỚI BẤT TƯ NGHÌ CẢNH GIỚI BẤT TƯ NGHÌ CẢNH GIỚI BẤT TƯ NGHÌ CẢNH GIỚI BẤT TƯ NGHÌ CẢNH GIỚI BẤT TƯ NGHÌ CẢNH GIỚI BẤT TƯ NGHÌ CẢNH GIỚI BẤT TƯ NGHÌ CẢNH GIỚI BẤT TƯ NGHÌ CẢNH GIỚI BẤT TƯ NGHÌ CẢNH GIỚI BẤT TƯ NGHÌ CẢNH GIỚI BẤT TƯ NGHÌ CẢNH GIỚI BẤT TƯ NGHÌ CẢNH GIỚI BẤT TƯ NGHÌ CẢNH GIỚI BẤT TƯ NGHÌ CẢNH GIỚI BẤT TƯ NGHÌ CẢNH GIỚI BẤT TƯ NGHÌ CẢNH GIỚI BẤT TƯ NGHÌ CẢNH GIỚI BẤT TƯ NGHÌ CẢNH GIỚI BẤT TƯ NGHÌ CẢNH GIỚI BẤT TƯ NGHÌ CẢNH GIỚI BẤT TƯ NGHÌ CẢNH GIỚI BẤT TƯ NGHÌ CẢNH GIỚI BẤT TƯ NGHÌ CẢNH GIỚI BẤT TƯ NGHÌ CẢNH GIỚI BẤT TƯ NGHÌ CẢNH GIỚI BẤT TƯ NGHÌ CẢNH GIỚI BẤT TƯ NGHÌ CẢNH GIỚI BẤT TƯ NGHÌ CẢNH GIỚI BẤT TƯ NGHÌ CẢNH GIỚI BẤT TƯ NGHÌ CẢNH GIỚI BẤT TƯ NGHÌ CẢNH GIỚI BẤT TƯ NGHÌ CẢNH GIỚI BẤT TƯ NGHÌ CẢNH GIỚI BẤT TƯ NGHÌ CẢNH GIỚI BẤT TƯ NGHÌ CẢNH GIỚI BẤT TƯ NGHÌ CẢNH GIỚI BẤT TƯ NGHÌ CẢNH GIỚI BẤT TƯ NGHÌ Đại Bồ Tát ấy, do sáu phép Ba-la-mật-đa này, mau được viên mãn, gần gũi quả vị giác ngộ cao tột. Lúc bấy giờ, trong Pháp hội có một thiên nữ tên là Căng Già Thiên, từ chỗ ngồi đứng dậy, phủ che vai bên trái, gối phải quỳ xuống đất, chấp tay hướng về Phật Bạch. Bạch Thế Tôn Con sẽ tu hành bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, bác nhã Ba-la-mật-đa, thành thuộc hữu tình, nghiêm tình cõi Phật. Cõi Phật mà con cầu như cõi Phật mà hiện nay như lai ứng chánh đặng giác vì các đại chúng đã nói đầy đủ tất cả cảnh tướng cõi ấy ở trong kinh bác nhã Ba-la-mật-đa này. Khi ấy, Căng Già Thiên nói như vậy rồi, liền lấy các thứ hoa vàng, hoa bạc, hoa tươi trên bờ, dưới nước, các đồ trang nghiêm và cầm một chiếc thiên y màu vàng, cùng kính chí thành mà trải trên Phật. Do thần lực của Phật, thiên y bay vọt lên hư không, xoay qua phía bên phải, ở trên đỉnh Phật, biến thành đại báu có bốn trụ, bốn gốc, theo dịch trang trí rất dễ ưa thích. Khi ấy, thiên nữ cầm đại báu này ban cho các hữu tình đều có như nhau, hồi hướng quả vị giác ngộ cao tột. Lúc bấy giờ, như lại biết thiên nữ kia, chiến nguyện sâu rộng, liền miễn cười, thường pháp của chư Phật khi miễn cười thì có các thứ hào quan từ miệng phóng ra, nay Phật cũng vậy, từ trong diện môn của Ngài, phóng ra các thứ hào quan xanh, vàng, đỏ, trắng, hồng, biếc, tía, lục, chiếu khắp vô lượng, vô biên, vô số thế giới trong mười phương, rồi trở lại cõi này, hiện đại thần biến, vòng quanh Phật ba vòng, nhập vào đỉnh Phật. Lúc bấy giờ, Anang thấy việc ấy rồi, từ chỗ ngồi đứng dậy, gối phải quỳ xuống đất, chấp tay hướng về Phật Bạch. Bạch Thế Tôn Do nhân duyên gì mà Ngài miễn cười, vì chư Phật miễn cười, chẳng phải là không nhân duyên. Phật bảo Anang, này thiên nữ này, ở đời vị Lai sẽ được làm Phật, kiếp tên tin dụ, hiệu Phật là Kim Hoa như Lai, ứng chánh đẳng giác, minh hành viên mãng, thiện thể, thể gian giải, vô thượng trượng phu, điều ngữ sĩ, thiên nhân sư, Phật, Bạch gia Phạm. Anang nên biết, này thiên nữ này, tức là nữ thân cuối cùng phải thọ, bỏ thân này rồi, liền thọ nam thân, tận đời vị Lai, chẳng thọ lại thân nữ, từ đây chết rồi, sanh vào thế giới rất dễ ưu thích của Đức Phật bất động như Lai ứng chánh đẳng giác ở phương Đông. Tại cõi Phật kia, xiên tu Phạm hành. Vì nữ này ở thế giới ấy cũng có tên là Kim Hoa, tu các hành Đại Bồ-Tát. Này Anang, Đại Bồ-Tát Kim Hoa này, ở cảnh giới ấy chết rồi lại sanh phương khác, từ cõi Phật này đến cõi Phật khác, sanh ở bất kỳ cõi nào thường chẳng xa Phật. Như chuyển luân vương từ đại quán này đến đại quán khác, vui vẻ hưởng lạc cho đến mạng chung, chân chẳng chạm đất, Bồ-Tát Kim Hoa cũng lại như vậy, từ cõi Phật này đến cõi Phật khác cho đến quả vị giác ngộ cao tột, ở trong đời nào thường không xa Phật, nghe thọ chánh Pháp, tu hành Bồ-Tát. Lúc bấy giờ, Anang thầm nghĩ thế này, Bồ-Tát Kim Hoa, khi thành Phật cũng nên tuyên thuyết bác nhã Balamuddha sâu xa. Chúng đại Bồ-Tát ở Pháp hội ấy, số nhiều hay ít giống như hội chúng Bồ-Tát của Phật này. Phật biết ý nghĩ ấy, bảo Anang, đúng vậy. Đúng vậy. Đúng như ông đã nghĩ, Bồ-Tát Kim Hoa khi thành Phật cũng vì chúng hội tuyên thuyết bác nhã Balamuddha sâu xa như thế. Chúng đại Bồ-Tát ở Pháp hội kia, số nhiều hay ít cũng như hội chúng Bồ-Tát của Phật này. Này Anang! Nên biết, Đại Bồ-Tát Kim Hoa ấy, khi thành Phật, thì thế giới của Phật ấy, số lượng đệ tử xuất gia rất nhiều, chẳng thể tính đếm. Đó là chẳng thể tính đếm, hoặc trăm, hoặc ngàn, hoặc trăm ngàn, hoặc ước, hoặc trăm ước, hoặc ngàn ước, hoặc trăm ngàn ước, hoặc triệu, hoặc trăm triệu, hoặc ngàn triệu, hoặc trăm ngàn triệu chúng đại bí sô. Chỉ có thể nói tóm lại là vô số, vô lượng, vô biên trăm ngàn ước triệu chúng đại bí sô. Này Anang! Nên biết, Đại Bồ-Tát Kim Hoa ấy, khi thành Phật, ở cõi Phật ấy, không có nhiều tội lỗi như trong Kinh Bát Nhã Ba-la-mật-đa này đã nói. Bây giờ, cụ thọ Anang lại bạch Phật, bạch thế tôn. Này thiên nữ này, trước đây, đối với Đức Phật nào, đã phát tâm cầu quả vị giác ngộ cao tột, trồng các căng lạnh, phát nguyện hồi hướng mà nay được gặp Phật, cung chính cúng dường, để được thọ ký bớt thối chuyển. Phật bảo Anang, này thiên nữ này, ở chỗ Phật Nhiên Đăng đã phát tâm cầu quả vị giác ngộ cao tột, trồng các căng lạnh, phát nguyện hồi hướng cho nên nay gặp ta, cung chính cúng dường để được thọ ký bớt thối chuyển. Này Anang! Nên biết, ta ở chỗ Phật Nhiên Đăng thời quá thứ, dùng năm cành hoa để trại cúng Phật, phát nguyện hồi hướng. Nhiên Đăng như lai ứng chánh đẳng giác biết căng cơ của ta đã thành thuộc nên thọ ký cho ta. Bây giờ, thiên nữ nghe Phật thọ ký Đại Bồ-Tát cho ta, vui mừng nhảy nhót, liền dùng hoa vàng gãi cúng trên Phật, và phát tâm cầu quả vị giác ngộ cao tột, trồng các căng lạnh, phát nguyện hồi hướng, khiến ta ở đời vị lai, khi Bồ-Tát này thành Phật thì cũng như Phật hiện tiền hôm nay thọ ký Đại Bồ-Đệ cho ta. Cho nên ta nay thọ ký cho thiên nữ ấy. Cụ thọ Anang nghe Phật nói xong, vui mừng nhảy nhót, lại bạch Phật. Này thiên nữ này, từ lâu, vì quả vị giác ngộ cao tột, trồng cồi phước đức, này được thành thuộc nên được Phật thọ ký. Phật bảo Anang, đúng vậy. Đúng vậy. Này thiên nữ này, từ lâu đã vì quả vị giác ngộ cao tột, trồng cồi phước đức, này đã thành thuộc nên được ta thọ ký. Lii Phẩm Khéo Học 01 Bây giờ, cụ thọ thiện hiện bạch Phật, bạch Thế Tôn. Các đại Bồ Tát tu hành sâu sắc bác nhã Balamudda, làm thế nào tập gần Tamma Địa không, làm thế nào nhập Tamma Địa không? Làm thế nào tập gần Tamma Địa vô tướng, làm thế nào nhập Tamma Địa vô tướng? Làm thế nào tập gần Tamma Địa vô nguyện, làm thế nào nhập Tamma Địa vô nguyện? Làm thế nào tập gần bốn niệm trụ, làm thế nào tu bốn niệm trụ? Làm thế nào tập gần bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căng, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo, làm thế nào tu bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo? Làm thế nào tập gần mười lực Phật, làm thế nào tu mười lực Phật? Làm thế nào tập gần bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại tư, đại bi, đại hỷ, đại xã, mười tám Pháp Phật bất cộng, làm thế nào tu bốn điều không sợ cho đến mười tám Pháp Phật bất cộng? Phật dạy, này thiện hiện. Các đại Bồ Tát tu hành sâu sắc bác nhã Ba-la-mật-đa nền quán sắc là không, nền quán thọ, tưởng, hành, thức là không, nền quán nhãn xứ là không, nền quán nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý xứ là không, nền quán sắc xứ là không, nền quán thanh, hương, vị, suốt, Pháp xứ là không, nền quán nhãn giới là không, nền quán nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý giới là không, nền quán sắc giới là không, nền quán thanh, hương, vị, suốt, Pháp giới là không, nền quán nhãn giới là không, nền quán nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý gi giới là không, nền quán nhãn xức giới là không, nền quán nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý, thức giới là không, nền quán nhãn xức là không, nền quán nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý xức là không, nền quán các thọ do nhãn xức làm duyên sanh ra là không, nền quán các thọ do nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý xức làm duyên sanh ra là không, nền quán địa giới là không, nền quán thủy, hỏa, phong, không, thức giới là không, nền quán vô minh là không, nền quán hành, thức, danh sách, luật sứ, suốt, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử là không, nền quán thủ, hữu, sanh, lão tử là không, nền quán vô minh là không nền quán bố thí-ba-la-mật-đa là không, nền quán tỉnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tình lự, bác nhã-ba-la-mật-đa là không, nền quán pháp không nội là không, nền quán pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không trốt tráo, pháp không không biên giới, pháp không tảng mạng, pháp không không đội khác, pháp không bản tánh, pháp không không đội khác, pháp không thắng nghĩa, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không trốt tráo, pháp không pháp không tự tướng, pháp không trọng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng có. Hãy nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh là không, nền quán chân như là không, nền quán pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hưu vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly xanh, định pháp, trụ pháp, thực tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tương nhì là không, nền quán thánh đế khổ là không, nền quán thánh đế tập, dịch, đạo là không, nền quán 4 tịnh lự là không, nền quán 4 vô lượng, 4 định vô sắc là không, nền quán 8 giải thoát là không, nền quán 8 thắng xứ, 9 định thứ đệ, 10 biến xứ là không, nền quán 4 nghiệp trụ là không, nền quán 4 chánh đoạn, 4 thần túc, 5 căng, 5 lực, 7 chi đẳng giác, 8 chi thánh đạo là không, nền quán pháp môn giải thoát không là không, nền quán pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện là không, nền quán 10 địa bồ tát của ba thừa là không, nền quán 5 loại mắt là không, nền quán 6 phép thần thông là không, nền quán 10 lực phật là không, nền quán 4 điều không sợ, 4 sự hiểu biết thông suốt, đại tử, đại bi, đại hỷ, đại xã, 18 pháp phật bất cộng là không, nền quán pháp không quên mất là không, nền quán tánh luôn luôn xã là không, nền quán trí nhất thiết là không, nền quán trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng là không, nền quán tất cả pháp môn Đà-La-Ni là không, nền quán tất cả pháp môn Ta-Ma-Địa là không, nền quán quả dự lưu là không, nền quán quả nhất lai, bất hoàng, A-La-Háng là không, nền quán quả vị độc giác là không, nền quán tất cả hành đại Bồ-Tát là không, nền quán quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật là không, nền quán pháp hữu lậu là không, nền quán pháp vô lậu pháp là không, nền quán pháp thế gian là không, nền quán pháp gốc thế gian là không, nền quán pháp hữu vi là không, nền quán pháp vô vi là không, nền quán pháp quá khứ là không, nền quán pháp vị lai, hiện tại là không, nền quán pháp thiện là không, nền quán pháp bất thiện, vô ký là không, nền quán pháp dục giới là không, nền quán pháp sắc, vô sắc giới là không. Này thiện hiện! Đại Bồ-Tát ấy, khi quán như vậy, khiến tâm chẳng loạn, nếu tâm chẳng loạn thì chẳng thấy pháp, nếu chẳng thấy pháp thì chẳng chứng đắc. Vì sao? Này thiện hiện! Vì Đại Bồ-Tát ấy, khéo học tự tướng các pháp đều là không, không có pháp nào có thể tăng, không có pháp nào có thể giảm, cho nên đối với chẳng thấy, chẳng chứng. Vì sao? Này thiện hiện! Vì ở trong thắng nghĩa đế của tất cả pháp, năng chứng, sở chứng, chỗ chứng, thời gian chứng và do pháp đó được chứng, hoặc hiệp, hoặc ly đều chẳng thể nắm bắt được, chẳng thể thấy được. Khi ấy, Cụ Thọ thiện hiện Bạch Phật, Bạch Thế Tôn. Như Phật đã dạy, các Đại Bồ-Tát đối với cái không của các pháp chẳng nên chứng đắc. Bạch Thế Tôn! Vì sao các Đại Bồ-Tát an trụ cái không của các pháp mà chẳng chứng đắc? Phật dạy, này thiện hiện! Các Đại Bồ-Tát khi quán cái không của pháp thì trước hết nghĩ thế này, ta nên quán các tướng của pháp đều không, chẳng nên chứng đắc. Ta vì học nên quán cái không của các pháp chứ chẳng vì chứng đắc mà quán cái không của các pháp. Nay là lúc học chứ chẳng phải là lúc chứng. Nay thiện hiện! Đại Bồ-Tát ấy chưa nhập định vị, buộc tâm ở sở duyên, khi đã nhập định thì chẳng để tâm nơi cảnh. Nay thiện hiện! Đại Bồ-Tát ấy, ở trong lúc này, chẳng từ bỏ Bố Thí-Ba-La-Mật-Đa, chẳng chứng lậu tầng, chẳng từ bỏ tình giới, an nhẫn, tinh tấn, tình lự, bác nhã-Ba-La-Mật-Đa, chẳng chứng lậu tầng, chẳng từ bỏ pháp không nội, chẳng chứng lậu tầng, chẳng từ bỏ pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không trốt tráo, pháp không không biên giới, pháp không tạng mạng, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng có thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh, chẳng chứng lậu tầng, chẳng từ bỏ chân như, chẳng chứng lậu tầng, chẳng từ bỏ pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly xanh, định pháp, trụ pháp, thực tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tương nghị, chẳng chứng lậu tầng, chẳng từ bỏ thanh đế khổ, chẳng chứng lậu tầng, chẳng từ bỏ thanh đế tập, diệt, đạo, chẳng chứng lậu tầng, chẳng từ bỏ 4 tinh lự, chẳng chứng lậu tầng, chẳng từ bỏ 4 vô lượng, 4 định vô sắc, chẳng chứng lậu tầng, chẳng từ bỏ 8 giải thoát, chẳng chứng lậu tầng, chẳng từ bỏ 8 tháng sướng, 9 định thứ đệ, 10 biến sướng, chẳng chứng lậu tầng, chẳng từ bỏ 4 niệm trụ, chẳng chứng lậu tầng, chẳng từ b bẫy chi đẳng giác, 8 chi thánh đạo, chẳng chứng lậu tầng, chẳng từ bỏ pháp môn giải thoát không, chẳng chứng lậu tầng, chẳng từ bỏ pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện, chẳng chứng lậu tầng, chẳng từ bỏ 5 loại mắt, chẳng chứng lậu tầng, chẳng từ bỏ 6 phết thần thông, chẳng chứng lậu tầng, chẳng từ bỏ 10 lực Phật, chẳng chứng lậu tầng, chẳng từ bỏ 4 điều không sợ, 4 sự hiểu biết thông suốt, đại tự, đại bi, đại hỷ, đ chẳng từ bỏ pháp không quên mất, chẳng chứng lậu tầng, chẳng từ bỏ tánh luôn luôn xã, chẳng chứng lậu tầng, chẳng từ bỏ trí nhất thiết, chẳng chứng lậu tầng, chẳng từ bỏ trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, chẳng chứng lậu tầng, chẳng từ bỏ tất cả pháp môn Đà-la-ni, chẳng chứng lậu tầng, chẳng từ bỏ tất cả pháp môn Tam-ma-địa, chẳng chứng lậu tầng, chẳng từ bỏ hành đại Bồ-Tát, chẳng chứng lậu tầng, ch� vì sao? Này thiện hiện! Vì Đại Bồ-Tát ấy thành tựu đại thí vi diệu như thế, khéo an trụ pháp không và tất cả pháp bồ đề phần, nghĩ thế này, bây giờ nên học chẳng phải là lúc chứng. Này thiện hiện! Đại Bồ-Tát ấy tu hành sâu sắc bác ngã Ba-la-mật-đa nên nghĩ thế này, tạ đối với bố thí Ba-la-mật-đa, bây giờ nên học, chẳng nên chứng. Tạ đối với tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, bác ngã Ba-la-mật-đa, bây giờ nên học, chẳng nên chứng. Tạ đối với pháp không nội, bây giờ nên học, chẳng nên chứng. Tạ đối với pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nỉa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không trốt tráo, pháp không không biên giới, pháp không tảng mạng, pháp không không nội khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không tổng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng có thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự. Tánh, bây giờ nên học, chẳng nên chứng. Tạ đối với chân như, bây giờ nên học, chẳng nên chứng. Tạ đối với pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly xanh, định pháp, trụ pháp, thực tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tương nghị, bây giờ nên học, chẳng nên chứng. Tạ đối với thánh đế khổ, bây giờ nên học, chẳng nên chứng. Tạ đối với thánh đế tập, diệt, đạo, bây giờ nên học, chẳng nên chứng. Tạ đối với bốn tịnh lự, bây giờ nên học, chẳng nên chứng. Tạ đối với bốn vô lượng, bốn định vô sắc, bây giờ nên học, chẳng nên chứng. Tạ đối với tám giải thoát, bây giờ nên học, chẳng nên chứng. Tạ đối với tám thắng xứ, chính định thứ đệ, mười biến xứ, bây giờ nên học, chẳng nên chứng. Tạ đối với bốn niệm trụ, bây giờ nên học, chẳng nên chứng. Tạ đối với bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căng, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo, bây giờ nên học, chẳng nên chứng. Tạ đối với pháp môn giải thoát không, bây giờ nên học, chẳng nên chứng. Tạ đối với pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện, bây giờ nên học, chẳng nên chứng. Tạ đối với năm loại mắt, bây giờ nên học, chẳng nên chứng. Tạ đối với sáu phép thần thông, bây giờ nên học, chẳng nên chứng. Tạ đối với mười lực Phật, bây giờ nên học, chẳng nên chứng. Tạ đối với bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xã, mười tám Pháp Phật bất động, bây giờ nên học, chẳng nên chứng. Tạ đối với pháp không quên mất, bây giờ nên học, chẳng nên chứng. Tạ đối với tánh luôn luôn xã, bây giờ nên học, chẳng nên chứng. Tạ đối với trí nhất thiết, bây giờ nên học, chẳng nên chứng. Tạ đối với trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, bây giờ nên học, chẳng nên chứng. Tạ đối với tất cả pháp môn Đà-la-ni, bây giờ nên học, chẳng nên chứng. Tạ đối với tất cả pháp môn Tam-ma-địa, bây giờ nên học, chẳng nên chứng. Tạ đối với tất cả hành đại Bồ-Tát, bây giờ nên học, chẳng nên chứng. Tạ đối với quả vị giác ngộ cao tột, bây giờ nên học, chẳng nên chứng. Tạ này nên học trí nhất thiết trí, chẳng nên chứng quả dự lưu. Tạ này nên học trí nhất thiết trí, chẳng nên chứng quả nhất lai, bất hoàng, à-la-hắng. Tạ này nên học trí nhất thiết trí, chẳng nên chứng quả vị độc giác. Tạ này nên học trí nhất thiết trí, chẳng nên chứng. Tạ này nên học trí nhất thiết trí, chẳng nên chứng. Tạ này nên học trí nhất thiết trí, chẳng nên chứng. Tạ này nên học trí nhất thiết trí, chẳng nên chứng. Tạ này nên học trí nhất thiết trí, chẳng nên chứng. Tạ này nên học trí nhất thiết trí, chẳng nên chứng.