Details
Nothing to say, yet
Big christmas sale
Premium Access 35% OFF
Nothing to say, yet
Kinh Đại Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa Tập 15 Quyển 361 LXI Phẩm Đa Vấn Bất Nhị 11 Phật Dạy Này Thiện Hiện! Đại Bồ-Tát khi hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa nên quán tự tướng các Pháp đều là không mà học. Như vậy, này Thiện Hiện! Đại Bồ-Tát khi hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa nên đối với sắc chẳng khởi lên các hành hoạt hữu hoặc vô mà học nên đối với thọ, tưởng, hành, thức cũng chẳng khởi lên các hành hoạt hữu hoặc vô mà học. Này Thiện Hiện! Đại Bồ-Tát khi hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa nên quán tự tướng các Pháp đều là không mà học. Như vậy, này Thiện Hiện! Đại Bồ-Tát khi hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa nên đối với nhãn xứ chẳng khởi lên các hành hoạt hữu hoặc vô mà học nên đối với nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý xứ cũng chẳng khởi lên các hành hoạt hữu hoặc vô mà học. Này Thiện Hiện! Đại Bồ-Tát khi hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa nên quán tự tướng các Pháp đều là không mà học. Như vậy, này Thiện Hiện! Đại Bồ-Tát khi hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa nên đối với sắc xứ chẳng khởi lên các hành hoạt hữu hoặc vô mà học nên đối với thanh, hương, vị, xúc, Pháp xứ cũng chẳng khởi lên các hành hoạt hữu hoặc vô mà học. Này Thiện Hiện! Đại Bồ-Tát khi hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa nên quán tự tướng các Pháp đều là không mà học. Như vậy, này Thiện Hiện! Đại Bồ-Tát khi hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa nên đối với nhãn giới chẳng khởi lên các hành hoạt hữu hoặc vô mà học nên đối với nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý giới cũng chẳng khởi lên các hành hoạt hữu hoặc vô mà học. Này Thiện Hiện! Đại Bồ-Tát khi hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa nên quán tự tướng các Pháp đều là không mà học. Như vậy, này Thiện Hiện! Đại Bồ-Tát khi hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa nên đối với sách giới chẳng khởi lên các hành hoạt hữu hoặc vô mà học nên đối với thanh, hương, vị, xúc, Pháp giới cũng chẳng khởi lên các hành hoạt hữu hoặc vô mà học. Này Thiện Hiện! Đại Bồ-Tát khi hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa nên quán tự tướng các Pháp đều là không mà học. Như vậy, này Thiện Hiện! Đại Bồ-Tát khi hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa nên đối với nhãn thức giới chẳng khởi lên các hành hoạt hữu hoặc vô mà học nên đối với nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý thức giới cũng chẳng khởi lên các hành hoạt hữu hoặc vô mà học. Này Thiện Hiện! Đại Bồ-Tát khi hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa nên quán tự tướng các Pháp đều là không mà học. Như vậy, này Thiện Hiện! Đại Bồ-Tát khi hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa nên đối với nhãn thức chẳng khởi lên các hành hoạt hữu hoặc vô mà học nên đối với nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý thức cũng chẳng khởi lên các hành hoạt hữu hoặc vô mà học. Này Thiện Hiện! Đại Bồ-Tát khi hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa nên quán tự tướng các Pháp đều là không mà học. Như vậy, này Thiện Hiện! Đại Bồ-Tát khi hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa nên đối với nhãn thức chẳng khởi lên các hành hoạt hữu hoặc vô mà học nên đối với nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý thức cũng chẳng khởi lên các hành hoạt hữu hoặc vô mà học. Này Thiện Hiện! Đại Bồ-Tát khi hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa nên quán tự tướng các Pháp đều là không mà học. Như vậy, này Thiện Hiện! Đại Bồ-Tát khi hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa nên đối với địa giới chẳng khởi lên các hành hoạt hữu hoặc vô mà học nên đối với thủy, hỏa, phong, không, thức giới cũng chẳng khởi lên các hành hoạt hữu hoặc vô mà học. Này Thiện Hiện! Đại Bồ-Tát khi hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa nên quán tự tướng các Pháp đều là không mà học. Như vậy, này Thiện Hiện! Đại Bồ-Tát khi hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa nên đối với vô minh, chẳng khởi lên các hành hoạt hữu hoặc vô mà học nên đối với hành, thức, danh sắc, luật sứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, thang, khổ, ưu, não cũng chẳng khởi lên các hành hoạt hữu hoặc vô mà học. Này Thiện Hiện! Đại Bồ-Tát khi hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa nên quán tự tướng các Pháp đều là không mà học. Như vậy, này Thiện Hiện! Đại Bồ-Tát khi hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa nên đối với bố thí Ba-La-Mật-Đa chẳng khởi lên các hành hoạt hữu hoặc vô mà học nên đối với tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tình lự, Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa cũng chẳng khởi lên các hành hoạt hữu hoặc vô mà học. Này Thiện Hiện! Đại Bồ-Tát khi hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa nên quán tự tướng các Pháp đều là không mà học. Như vậy, này Thiện Hiện! Đại Bồ-Tát khi hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa nên đối với Pháp không nội chẳng khởi lên các hành hoạt hữu hoặc vô mà học nên đối với Pháp không ngoại, Pháp không nội ngoại, Pháp không không, Pháp không lớn, Pháp không thắng nghĩa, Pháp không hữu vi, Pháp không vô vi, Pháp không đốt tráo, Pháp không không biên giới, Pháp không tảng mạng, Pháp không không đội khác, Pháp không bản tánh, Pháp không tự tướng, Pháp không tổng tướng, Pháp không tất cả Pháp, Pháp không chẳng thể nắm bắt được, Pháp không... không tánh, Pháp không tự tánh, Pháp không không tánh tự tánh, cũng chẳng khởi lên các hành hoạt hữu hoặc vô mà học. Này Thiện Hiện! Đại Bồ-Tát khi hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa nên quán tự tướng các Pháp đều là không mà học. Như vậy, này Thiện Hiện! Đại Bồ-Tát khi hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa nên đối với chân như chẳng khởi lên các hành hoạt hữu hoặc vô mà học, nên đối với Pháp giới, Pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đội khác, tánh bình đẳng, tánh ly xanh, định pháp, trụ pháp, thực tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nhi, cũng chẳng khởi lên các hành hoạt hữu hoặc vô mà học. Này Thiện Hiện! Đại Bồ-Tát khi hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa nên quán tự tướng các Pháp đều là không mà học. Như vậy, này Thiện Hiện! Đại Bồ-Tát khi hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa nên đối với thánh đế khổ, chẳng khởi lên các hành hoạt hữu hoặc vô mà học, nên đối với thánh đế tập, diệt, đạo, cũng chẳng khởi lên các hành hoạt hữu hoặc vô mà học. Này Thiện Hiện! Đại Bồ-Tát khi hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa nên quán tự tướng các Pháp đều là không mà học. Như vậy, này Thiện Hiện! Đại Bồ-Tát khi hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa nên đối với 4 niệm trụ, chẳng khởi lên các hành hoạt hữu hoặc vô mà học, nên đối với 4 chánh đoạn, 4 thần túc, 5 căng, 5 lực, 7 chi đẳng giác, 8 chi thánh đạo, cũng chẳng khởi lên các hành hoạt hữu hoặc vô mà học. Này Thiện Hiện! Đại Bồ-Tát khi hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa nên quán tự tướng các Pháp đều là không mà học. Như vậy, này Thiện Hiện! Đại Bồ-Tát khi hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa nên đối với 4 tịnh lự, chẳng khởi lên các hành hoạt hữu hoặc vô mà học, nên đối với 4 vô lượng, 4 định vô sắc, cũng chẳng khởi lên các hành hoạt hữu hoặc vô mà học. Này Thiện Hiện! Đại Bồ-Tát khi hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa nên quán tự tướng các Pháp đều là không mà học. Như vậy, này Thiện Hiện! Đại Bồ-Tát khi hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa nên đối với 8 giải thoát, chẳng khởi lên các hành hoạt hữu hoặc vô mà học, nên đối với 8 thắng khứng, 9 định thứ đệ, 10 biến khứng, cũng chẳng khởi lên các hành hoạt hữu hoặc vô mà học. Này Thiện Hiện! Đại Bồ-Tát khi hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa nên quán tự tướng các Pháp đều là không mà học. Như vậy, này Thiện Hiện! Đại Bồ-Tát khi hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa nên đối với tất cả Pháp môn Đa-La-Ni, chẳng khởi lên các hành hoạt hữu hoặc vô mà học, nên đối với tất cả Pháp môn Ta-Ma-Địa, cũng chẳng khởi lên các hành hoạt hữu hoặc vô mà học. Này Thiện Hiện! Đại Bồ-Tát khi hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa nên quán tự tướng các Pháp đều là không mà học. Như vậy, này Thiện Hiện! Đại Bồ-Tát khi hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa nên đối với Pháp môn giải thoát không, chẳng khởi lên các hành hoạt hữu hoặc vô mà học, nên đối với Pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện, cũng chẳng khởi lên các hành hoạt hữu hoặc vô mà học. Này Thiện Hiện! Đại Bồ-Tát khi hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa nên quán tự tướng các Pháp đều là không mà học. Như vậy, này Thiện Hiện! Đại Bồ-Tát khi hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa nên đối với năm loại mắt, chẳng khởi lên các hành hoạt hữu hoặc vô mà học, nên đối với sáu phép thần thông, cũng chẳng khởi lên các hành hoạt hữu hoặc vô mà học. Này Thiện Hiện! Đại Bồ-Tát khi hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa nên quán tự tướng các Pháp đều là không mà học. Như vậy, này Thiện Hiện! Đại Bồ-Tát khi hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa nên đối với mười lực Phật, chẳng khởi lên các hành hoạt hữu hoặc vô mà học, nên đối với bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại tư, đại bi, đại hỷ, đại xã, mười tám Pháp Phật bất cộng, cũng chẳng khởi lên các hành hoạt hữu hoặc vô mà học. Này Thiện Hiện! Đại Bồ-Tát khi hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa nên quán tự tướng các Pháp đều là không mà học. Như vậy, này Thiện Hiện! Đại Bồ-Tát khi hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa nên đối với Pháp không quên mất, chẳng khởi lên các hành hoạt hữu hoặc vô mà học, nên đối với tánh luôn luôn xã, cũng chẳng khởi lên các hành hoạt hữu hoặc vô mà học. Này Thiện Hiện! Đại Bồ-Tát khi hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa nên quán tự tướng các Pháp đều là không mà học. Như vậy, này Thiện Hiện! Đại Bồ-Tát khi hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa nên đối với trí nhất thiết chẳng khởi lên các hành hoạt hữu hoặc vô mà học, nên đối với trí đạo tướng trí nhất thiết tướng cũng chẳng khởi lên các hành hoạt hữu hoặc vô mà học. Này Thiện Hiện! Đại Bồ-Tát khi hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa nên quán tự tướng các Pháp đều là không mà học. Như vậy, này Thiện Hiện! Đại Bồ-Tát khi hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa nên đối với quả dự lưu chẳng khởi lên các hành hoạt hữu hoặc vô mà học, nên đối với quả nhất lai, bất hoàng, A-La-Háng cũng chẳng khởi lên các hành hoạt hữu hoặc vô mà học. Này Thiện Hiện! Đại Bồ-Tát khi hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa nên quán tự tướng các Pháp đều là không mà học. Như vậy, này Thiện Hiện! Đại Bồ-Tát khi hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa nên đối với quả vị độc giác chẳng khởi lên các hành hoạt hữu hoặc vô mà học. Này Thiện Hiện! Đại Bồ-Tát khi hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa nên quán tự tướng các Pháp đều là không mà học. Như vậy, này Thiện Hiện! Đại Bồ-Tát khi hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa nên đối với tất cả hành Đại Bồ-Tát chẳng khởi lên các hành hoạt hữu hoặc vô mà học. Này Thiện Hiện! Đại Bồ-Tát khi hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa nên quán tự tướng các Pháp đều là không mà học. Như vậy, này Thiện Hiện! Đại Bồ-Tát khi hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa nên đối với quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật chẳng khởi lên các hành hoạt hữu hoặc vô mà học. Cụ thỏ Thiện Hiện bạch Phật! Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-Tát khi hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa nên quán tự tướng các Pháp đều là không mà học? Phật dạy! Này Thiện Hiện! Đại Bồ-Tát khi hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa nên quán sắc và tướng của sắc là không mà học, nên quán thọ, tướng, hành, thức và tướng của thọ, tướng, hành, thức là không mà học. Như vậy, Thiện Hiện! Đại Bồ-Tát khi hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa nên quán tự tướng các Pháp đều là không mà học. Này Thiện Hiện! Đại Bồ-Tát khi hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa nên quán nhãn xứ và tướng của nhãn xứ là không mà học, nên quán nhĩ, tỉ, thiệt, thân, y sứ và tướng của nhĩ, tỉ, thiệt, thân, y sứ là không mà học. Như vậy, Thiện Hiện! Đại Bồ-Tát khi hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa nên quán tự tướng các Pháp đều là không mà học. Này Thiện Hiện! Đại Bồ-Tát khi hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa nên quán sắc xứ và tướng của sắc xứ là không mà học, nên quán thanh, hương, vị, xúc, Pháp xứ và tướng của thanh, hương, vị, xúc, Pháp xứ là không mà học. Như vậy, Thiện Hiện! Đại Bồ-Tát khi hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa nên quán tự tướng các Pháp đều là không mà học. Này Thiện Hiện! Đại Bồ-Tát khi hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa nên quán nhãn giới và tướng của nhãn giới là không mà học, nên quán nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý giới và tướng của nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý giới là không mà học. Như vậy, Thiện Hiện! Đại Bồ-Tát khi hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa nên quán tự tướng các Pháp đều là không mà học. Này Thiện Hiện! Đại Bồ-Tát khi hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa nên quán sách giới và tướng của sách giới là không mà học, nên quán thanh, hương, vị, xuất, Pháp giới và tướng của thanh, hương, vị, xuất, Pháp giới là không mà học. Như vậy, Thiện Hiện! Đại Bồ-Tát khi hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa nên quán tự tướng các Pháp đều là không mà học. Này Thiện Hiện! Đại Bồ-Tát khi hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa nên quán nhãn thức giới và tướng của nhãn thức giới là không mà học, nên quán nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý thức giới và tướng của nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý thức giới là không mà học. Như vậy, Thiện Hiện! Đại Bồ-Tát khi hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa nên quán tự tướng các Pháp đều là không mà học. Này Thiện Hiện! Đại Bồ-Tát khi hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa nên quán nhãn thức và tướng của nhãn thức là không mà học, nên quán nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý thức và tướng của nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý thức là không mà học. Như vậy, Thiện Hiện! Đại Bồ-Tát khi hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa nên quán tự tướng các Pháp đều là không mà học. Này Thiện Hiện! Đại Bồ-Tát khi hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa nên quán các thọ do nhãn thức làm duyên sanh ra và tướng của các thọ do nhãn thức làm duyên sanh ra là không mà học, nên quán các thọ do nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý thức làm duyên sanh ra và tướng của các thọ do nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý thức làm duyên sanh ra là không mà học. Như vậy, Thiện Hiện! Đại Bồ-Tát khi hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa nên quán tự tướng các Pháp đều là không mà học. Này Thiện Hiện! Đại Bồ-Tát khi hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa nên quán địa giới và tướng của địa giới là không mà học, nên quán thủy, hỏa, phong, không, thức giới và tướng của thủy, hỏa, phong, không, thức giới là không mà học. Như vậy, Thiện Hiện! Đại Bồ-Tát khi hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa nên quán tự tướng các Pháp đều là không mà học. Này Thiện Hiện! Đại Bồ-Tát khi hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa nên quán vô minh và tướng của vô minh là không mà học, nên quán hành, thức, danh sách, lục thứng, xuất, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, thang, khổ, ưu, não và tướng của hành cho đến lão tử, sầu, thang, khổ, ưu, não là không mà học. Như vậy, Thiện Hiện! Đại Bồ-Tát khi hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa nên quán tự tướng các Pháp đều là không mà học. Này Thiện Hiện! Đại Bồ-Tát khi hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa nên quán bố thí Ba-La-Mật-Đa và tướng của bố thí Ba-La-Mật-Đa là không mà học, nên quán tỉnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tình lự, Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa và tướng của tỉnh giới cho đến Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa là không mà học. Như vậy, Thiện Hiện! Đại Bồ-Tát khi hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa nên quán tự tướng các Pháp đều là không mà học. Này Thiện Hiện! Đại Bồ-Tát khi hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa nên quán Pháp không nội và tướng của Pháp không nội là không mà học, nên quán Pháp không ngoại, Pháp không nội ngoại, Pháp không không, Pháp không lớn, Pháp không thắng nghĩa, Pháp không hữu vi, Pháp không vô vi, Pháp không trốt cháo, Pháp không không biên giới, Pháp không tảng mạng, Pháp không không đội khác, Pháp không bản tánh, Pháp không tự tướng, Pháp không tổng tướng, Pháp không tất cả Pháp, Pháp không chẳng thể nắm bắt được, Pháp không không tánh. Pháp không tự tánh, Pháp không không tánh tự tánh và tướng của Pháp không ngoại cho đến Pháp không không tánh tự tánh là không mà học. Như vậy, Thiện Hiện! Đại Bồ-Tát khi hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa nên quán tự tướng các Pháp đều là không mà học. Này Thiện Hiện! Đại Bồ-Tát khi hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa nên quán chân như và tướng của chân như là không mà học, nên quán Pháp giới, Pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đội khác, tánh bình đẳng, tánh ly xanh, định Pháp, trụ Pháp, thực tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tương nghị và tướng của Pháp giới cho đến cảnh giới bất tương nghị là không mà học. Như vậy, Thiện Hiện! Đại Bồ-Tát khi hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa nên quán tự tướng các Pháp đều là không mà học. Này Thiện Hiện! Đại Bồ-Tát khi hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa nên quán thánh đế khổ và tướng của thánh đế khổ là không mà học, nên quán thánh đế tập, diệt, đạo và tướng của thánh đế tập, diệt, đạo là không mà học. Như vậy, Thiện Hiện! Đại Bồ-Tát khi hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa nên quán tự tướng các Pháp đều là không mà học. Này Thiện Hiện! Đại Bồ-Tát khi hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa nên quán 4 niệm trụ và tướng của 4 niệm trụ là không mà học, nên quán 4 chánh đoạn, 4 thần túc, 5 trăng, 5 lực, 7 chi đẳng giác, 8 chi thánh đạo và tướng của 4 chánh đoạn cho đến 8 chi thánh đạo là không mà học. Như vậy, Thiện Hiện! Đại Bồ-Tát khi hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa nên quán tự tướng các Pháp đều là không mà học. Này Thiện Hiện! Đại Bồ-Tát khi hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa nên quán 4 tỉnh lựu và tướng của 4 tỉnh lựu là không mà học, nên quán 4 vô lượng, 4 định vô sắc và tướng của 4 vô lượng, 4 định vô sắc là không mà học. Như vậy, Thiện Hiện! Đại Bồ-Tát khi hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa nên quán tự tướng các Pháp đều là không mà học. Này Thiện Hiện! Đại Bồ-Tát khi hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa nên quán 8 giải thoát và tướng của 8 giải thoát là không mà học, nên quán 8 thắng sướng, 9 định thứ đệ, 10 biến sứ và tướng của 8 thắng sướng, 9 định thứ đệ, 10 biến sứ là không mà học. Như vậy, Thiện Hiện! Đại Bồ-Tát khi hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa nên quán tự tướng các Pháp đều là không mà học. Này Thiện Hiện! Đại Bồ-Tát khi hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa nên quán tất cả Pháp môn Tam-ma-địa và tướng của tất cả Pháp môn Tam-ma-địa là không mà học, nên quán tất cả Pháp môn Đa-la-ni và tướng của tất cả Pháp môn Đa-la-ni là không mà học. Như vậy, Thiện Hiện! Đại Bồ-Tát khi hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa nên quán tự tướng các Pháp đều là không mà học. Này Thiện Hiện! Đại Bồ-Tát khi hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa nên quán Pháp môn Giải thoát không và tướng của Pháp môn Giải thoát không là không mà học, nên quán Pháp môn Giải thoát vô tướng, vô nguyện và tướng của Pháp môn Giải thoát vô tướng, vô nguyện là không mà học. Như vậy, Thiện Hiện! Đại Bồ-Tát khi hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa nên quán tự tướng các Pháp đều là không mà học. Này Thiện Hiện! Đại Bồ-Tát khi hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa nên quán năm loại mắt và tướng của năm loại mắt là không mà học, nên quán sáu phép thần thông và tướng của sáu phép thần thông là không mà học. Như vậy, Thiện Hiện! Đại Bồ-Tát khi hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa nên quán tự tướng các Pháp đều là không mà học. Này Thiện Hiện! Đại Bồ-Tát khi hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa nên quán mười lực Phật và tướng của mười lực Phật là không mà học, nên quán bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, Đại Từ, Đại Bi, Đại Hỷ, Đại Phả, mười tám Pháp Phật bất cộng và tướng của bốn điều không sợ cho đến mười tám Pháp Phật bất cộng là không mà học. Như vậy, Thiện Hiện! Đại Bồ-Tát khi hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa nên quán tự tướng các Pháp đều là không mà học. Này Thiện Hiện! Đại Bồ-Tát khi hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa nên quán Pháp không quên mất và tướng của Pháp không quên mất là không mà học, nên quán tánh luôn luôn xã và tướng của tánh luôn luôn xã là không mà học. Như vậy, Thiện Hiện! Đại Bồ-Tát khi hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa nên quán tự tướng các Pháp đều là không mà học. Này Thiện Hiện! Đại Bồ-Tát khi hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa nên quán trí nhất thiết và tướng của trí nhất thiết là không mà học, nên quán trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng và tướng của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng là không mà học. Như vậy, Thiện Hiện! Đại Bồ-Tát khi hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa nên quán tự tướng các Pháp đều là không mà học. Này Thiện Hiện! Đại Bồ-Tát khi hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa nên quán quả dự lưu và tướng của quả dự lưu là không mà học, nên quán quả nhất lai, bất hoàng, A-La-Hán và tướng của quả nhất lai, bất hoàng, A-La-Hán là không mà học. Như vậy, Thiện Hiện! Đại Bồ-Tát khi hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa nên quán tự tướng các Pháp đều là không mà học. Này Thiện Hiện! Đại Bồ-Tát khi hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa nên quán quả vị độc giác và tướng của quả vị độc giác là không mà học. Như vậy, Thiện Hiện! Đại Bồ-Tát khi hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa nên quán tự tướng các Pháp đều là không mà học. Này Thiện Hiện! Đại Bồ-Tát khi hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa nên quán tất cả hành Đại Bồ-Tát và tướng của tất cả hành Đại Bồ-Tát là không mà học. Như vậy, Thiện Hiện! Đại Bồ-Tát khi hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa nên quán tự tướng các Pháp đều là không mà học. Này Thiện Hiện! Đại Bồ-Tát khi hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa nên quán quả vị giác ngộ cao tổ của chư Phật và tướng của quả vị giác ngộ cao tổ của chư Phật là không mà học. Như vậy, Thiện Hiện! Đại Bồ-Tát khi hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa nên quán tự tướng các Pháp đều là không mà học. Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật! Bạch Thế Tôn! Nếu sắc và tướng của sắc là không, thọ, tướng, hành, thức và tướng của thọ, tướng, hành, thức là không thì tại sao Đại Bồ-Tát phải hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa? Bạch Thế Tôn! Nếu nhãn sứ và tướng của nhãn sứ là không, nhĩ, tỉ, thiệt, thân, y sứ và tướng của nhĩ, tỉ, thiệt, thân, y sứ là không thì tại sao Đại Bồ-Tát phải hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa? Bạch Thế Tôn! Nếu sắc sứ và tướng của sắc sứ là không, thanh, hương, vị, súc, pháp sứ và tướng của thanh, hương, vị, súc, pháp sứ là không thì tại sao Đại Bồ-Tát phải hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa? Bạch Thế Tôn! Nếu nhãn giới và tướng của nhãn giới là không, nhĩ, tỉ, thiệt, thân, y giới và tướng của nhĩ, tỉ, thiệt, thân, y giới là không thì tại sao Đại Bồ-Tát phải hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa? Bạch Thế Tôn! Nếu sắc giới và tướng của sắc giới là không, thanh, hương, vị, súc, pháp giới và tướng của thanh, hương, vị, súc, pháp giới là không thì tại sao Đại Bồ-Tát phải hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa? Bạch Thế Tôn! Nếu nhãn thức giới và tướng của nhãn thức giới là không, nhĩ, tỉ, thiệt, thân, y thức giới và tướng của nhĩ, tỉ, thiệt, thân, y thức giới là không thì tại sao Đại Bồ-Tát phải hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa? Bạch Thế Tôn! Nếu nhãn thức và tướng của nhãn thức là không, nhĩ, tỉ, thiệt, thân, y thức và tướng của nhĩ, tỉ, thiệt, thân, y thức là không thì tại sao Đại Bồ-Tát phải hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa? Bạch Thế Tôn! Nếu các thọ do nhãn xuất làm duyên sanh ra và tướng của các thọ do nhãn xuất làm duyên sanh ra là không, các thọ do nhĩ, tỉ, thiệt, thân, y xuất làm duyên sanh ra và tướng của các thọ do nhĩ, tỉ, thiệt, thân, y xuất làm duyên sanh ra là không thì tại sao Đại Bồ-Tát phải hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa? Bạch Thế Tôn! Nếu địa giới và tướng của địa giới là không, thủy, hỏa, phong, không, thức giới và tướng của thủy, hỏa, phong, không, thức giới là không thì tại sao Đại Bồ-Tát phải hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa? Bạch Thế Tôn! Nếu vô minh và tướng của vô minh là không, hành, thức, danh sắc, lục sứ, xuất, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, thang, khổ, ưu, não và tướng của hành cho đến lão tử, sầu, thang, khổ, ưu, não là không thì tại sao Đại Bồ-Tát phải hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa? Bạch Thế Tôn! Nếu bố thí Ba-La-Mật-Đa và tướng của bố thí Ba-La-Mật-Đa là không, tỉnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tình lự, Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa và tướng của tỉnh giới cho đến Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa là không thì tại sao Đại Bồ-Tát phải hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa? Bạch Thế Tôn! Nếu Pháp không nội và tướng của Pháp không nội là không, Pháp không ngoại, Pháp không nội ngoại, Pháp không không, Pháp không lớn, Pháp không thắng nghĩa, Pháp không hữu vi, Pháp không vô vi, Pháp không trốt tráo, Pháp không không biên giới, Pháp không tảng mạng, Pháp không không nội khác, Pháp không bản tánh, Pháp không tự tướng, Pháp không tổng tướng, Pháp không tất cả Pháp, Pháp không chẳng thể nắm bắt được, Pháp không không tánh, Pháp không tự tánh, Pháp không không tánh tự tánh và tướng của. Pháp không ngoại cho đến Pháp không không tánh tự tánh là không thì tại sao Đại Bồ-Tát phải hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa? Bạch Thế Tôn! Nếu chân như và tướng của chân như là không, Pháp giới, Pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi xác, tánh bình đẳng, tánh ly xanh, định pháp, trụ pháp, thực tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghị và tướng của Pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghị là không thì tại sao Đại Bồ-Tát phải hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa? Bạch Thế Tôn! Nếu thánh đế khổ và tướng của thánh đế khổ là không, thánh đế tập, diệt, đạo và tướng của thánh đế tập, diệt, đạo là không thì tại sao Đại Bồ-Tát phải hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa? Bạch Thế Tôn! Nếu bốn niệm trụ và tướng của bốn niệm trụ là không, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căng, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo và tướng của bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo là không thì tại sao Đại Bồ-Tát phải hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa? Bạch Thế Tôn! Nếu bốn tỉnh lựu và tướng của bốn tỉnh lựu là không, bốn vô lượng, bốn định vô sắc và tướng của bốn vô lượng, bốn định vô sắc là không thì tại sao Đại Bồ-Tát phải hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa? Bạch Thế Tôn! Nếu tám giải thoát và tướng của tám giải thoát là không, tám thắng xứ, chính định thứ đệ, mười biến xứ và tướng của tám thắng xứ, chính định thứ đệ, mười biến xứ là không thì tại sao Đại Bồ-Tát phải hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa? Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả pháp môn Tam-ma-địa và tướng của tất cả pháp môn Tam-ma-địa là không, tất cả pháp môn Đa-la-ni và tướng của tất cả pháp môn Đa-la-ni là không thì tại sao Đại Bồ-Tát phải hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa? Bạch Thế Tôn! Nếu pháp môn giải thoát không và tướng của pháp môn giải thoát không là không, pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện và tướng của pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện là không thì tại sao Đại Bồ-Tát phải hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa? Bạch Thế Tôn! Nếu năm loại mắt và tướng của năm loại mắt là không, sáu phép thần thông và tướng của sáu phép thần thông là không thì tại sao Đại Bồ-Tát phải hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa? Bạch Thế Tôn! Nếu mười lực Phật và tướng của mười lực Phật là không, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xã, mười tám pháp Phật bất cộng và tướng của bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng là không thì tại sao Đại Bồ-Tát phải hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa? Bạch Thế Tôn! Nếu Pháp không quên mất và tướng của Pháp không quên mất là không, tánh luôn luôn xả và tướng của tánh luôn luôn xả là không thì tại sao Đại Bồ-Tát phải hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa? Bạch Thế Tôn! Nếu trí nhất thiết và tướng của trí nhất thiết là không, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng và tướng của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng là không thì tại sao Đại Bồ-Tát phải hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa? Bạch Thế Tôn! Nếu quả dự lưu và tướng của quả dự lưu là không, quả nhất lai, bất hoàng, A-La-Hán và tướng của quả nhất lai, bất hoàng, A-La-Hán là không thì tại sao Đại Bồ-Tát phải hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa? Bạch Thế Tôn! Nếu quả vị độc giác và tướng của quả vị độc giác là không thì tại sao Đại Bồ-Tát phải hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa? Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả hành Đại Bồ-Tát và tướng của tất cả hành Đại Bồ-Tát là không thì tại sao Đại Bồ-Tát phải hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa? Bạch Thế Tôn! Nếu quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật và tướng của quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật là không thì tại sao Đại Bồ-Tát phải hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa? Phật dạy! Này Thiên Hiện! Đại Bồ-Tát hoàn toàn không có sở hành là hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa! Cùng thọ Thiên Hiện Bạch Phật! Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà Đại Bồ-Tát hoàn toàn không có sở hành là hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa? Phật dạy! Này Thiên Hiện! Do Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa này chẳng thể nắm bắt được, nên Đại Bồ-Tát cũng chẳng thể nắm bắt được, hành cũng chẳng thể nắm bắt được, hoặc người năng hành, hoặc do đó mà hành, hoặc chỗ sở hành đều chẳng thể nắm bắt được. Vì vậy, này Thiên Hiện! Đại Bồ-Tát hoàn toàn không có sở hành là hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa! Vì ở trong đó, tất cả hí luận chẳng thể nắm bắt được. Cùng thọ Thiên Hiện Bạch Phật! Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ-Tát hoàn toàn không có sở hành là hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa thì khi mới tu nghiệp Đại Bồ-Tát tại sao phải hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa? Phật dạy! Này Thiên Hiện! Đại Bồ-Tát từ khi mới phát tâm, nên đối với tất cả Pháp, thường học vô sở đắc. Này Thiên Hiện! Đại Bồ-Tát ấy, khi tu bố thí, dùng vô sở đắc làm phương tiện để tu bố thí, khi tu tỉnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tình lự, Bát Nhã, dùng vô sở đắc làm phương tiện để tu tỉnh giới cho đến Bát Nhã. Này Thiên Hiện! Đại Bồ-Tát ấy, khi trụ Pháp không nội, dùng vô sở đắc làm phương tiện để trụ Pháp không nội, khi trụ Pháp không ngoại, Pháp không nội ngoại, Pháp không không, Pháp không lớn, Pháp không thắng nghĩa, Pháp không hữu vi, Pháp không vô vi, Pháp không rốt ráo, Pháp không không biên giới, Pháp không tảng mạng, Pháp không không đổi khác, Pháp không bản tánh, Pháp không tự tướng, Pháp không tổng tướng, Pháp không tất cả Pháp, Pháp không chẳng thể nắm bắt được, Pháp không không tánh, Pháp không tự tánh. Pháp không không tánh tự tánh, dùng vô sở đắc làm phương tiện để trụ Pháp không ngoại cho đến Pháp không không tánh tự tánh. Này Thiên Hiện! Đại Bồ-Tát khi an trụ chân như, dùng vô sở đắc làm phương tiện để an trụ chân như, khi trụ Pháp giới, Pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly xanh, Pháp định, Pháp trụ, thực tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tương nghi, dùng vô sở đắc làm phương tiện để trụ Pháp giới cho đến cảnh giới bất tương nghi. Này Thiên Hiện! Đại Bồ-Tát ấy, khi tu bốn niệm trụ, dùng vô sở đắc làm phương tiện để tu bốn niệm trụ, khi tu bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căng, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo, dùng vô sở đắc làm phương tiện để tu bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo. Này Thiên Hiện! Đại Bồ-Tát ấy, khi trụ thánh đế khổ, dùng vô sở đắc làm phương tiện để trụ thánh đế khổ, khi trụ thánh đế tập, diệt, đạo, dùng vô sở đắc làm phương tiện để trụ thánh đế tập, diệt, đạo. Này Thiên Hiện! Đại Bồ-Tát ấy, khi tu bốn tình lự, dùng vô sở đắc làm phương tiện để tu bốn tình lự, khi tu bốn vô lượng, bốn định vô sắc, dùng vô sở đắc làm phương tiện để tu bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Này Thiên Hiện! Đại Bồ-Tát ấy, khi tu pháp môn giải thoát không, dùng vô sở đắc làm phương tiện để tu pháp môn giải thoát không, khi tu pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện, dùng vô sở đắc làm phương tiện để tu pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện. Này Thiên Hiện! Đại Bồ-Tát ấy, khi tu tám giải thoát, dùng vô sở đắc làm phương tiện để tu tám giải thoát, khi tu tám thắng xứng, chính định thứ đệ, mười biến xứng, dùng vô sở đắc làm phương tiện để tu tám thắng xứng, chính định thứ đệ, mười biến xứng. Này Thiên Hiện! Đại Bồ-Tát ấy, khi tu pháp môn Tam-ma-địa, dùng vô sở đắc làm phương tiện để tu pháp môn Tam-ma-địa, khi tu pháp môn Đa-la-ni, dùng vô sở đắc làm phương tiện để tu pháp môn Đa-la-ni. Này Thiên Hiện! Đại Bồ-Tát ấy, khi tu năm loại mắt, dùng vô sở đắc làm phương tiện để tu năm loại mắt, khi tu sáu phép thần thông, dùng vô sở đắc làm phương tiện để tu sáu phép thần thông. Này Thiên Hiện! Đại Bồ-Tát ấy, khi tu mười lực Phật, dùng vô sở đắc làm phương tiện để tu mười lực Phật, khi tu bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại tư, đại bi, đại hỷ, đại xã, mười tám Pháp Phật bất cộng, dùng vô sở đắc làm phương tiện để tu bốn điều không sợ cho đến mười tám Pháp Phật bất cộng. Này Thiên Hiện! Đại Bồ-Tát ấy, khi tu Pháp không quên mất, dùng vô sở đắc làm phương tiện để tu Pháp không quên mất, khi tu tánh luôn luôn xã, dùng vô sở đắc làm phương tiện để tu tánh luôn luôn xã. Này Thiên Hiện! Đại Bồ-Tát ấy, khi tu trí nhất thiết, dùng vô sở đắc làm phương tiện để tu trí nhất thiết, khi tu trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, dùng vô sở đắc làm phương tiện để tu trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Cụ Thọ Thiên Hiện Bạch Phật Bạch Thế Tôn Thế nào là hữu sở đắc? Thế nào là vô sở đắc? Phật dạy Này Thiên Hiện! Những gì có hai thì gọi là hữu sở đắc, những gì không có hai thì gọi là vô sở đắc. Bạch Thế Tôn Thế nào gọi là có hai? Thế nào gọi là không có hai? Này Thiên Hiện! Các nhãn, các sắc là hai, các nhĩ, các thanh là hai, các tỉ, các hương là hai, các thiệt, các vị là hai, các thân, các phúc là hai, các ý, các pháp là hai, hữu sắc vô sắc là hai, hữu kiến, vô kiến là hai, hữu đối, vô đối là hai, hữu lậu, vô lậu là hai, hữu vi, vô vi là hai, thế gian, suốt thế gian là hai, sanh tử, miết bạc là hai, pháp phạm phu và phạm phu là hai, pháp dự lưu và dự lưu là hai, pháp nhất là hai. Pháp nhất lai và nhất lai là hai, pháp bất hoàng và bất hoàng là hai, pháp A-la-hán và A-la-hán là hai, quả vị độc giác và độc giác là hai, hành đại Bồ-Tát và đại Bồ-Tát là hai, quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật và chư Phật là hai. Như vậy, có tất cả pháp khí luận đều gọi là có hai. Này Thiên Hiện! Vì, chẳng phải vô vi là không hai, chẳng phải thế gian, chẳng phải suốt thế gian là không hai, chẳng phải sanh tử, chẳng phải miết bạc là không hai, chẳng phải pháp phạm phu, chẳng phải phạm phu là không hai, chẳng phải pháp dự lưu chẳng phải dự lưu là không hai, chẳng phải pháp nhất lai chẳng phải nhất lai là không hai, chẳng phải pháp bất hoàng chẳng phải bất hoàng là không hai, chẳng phải pháp A-la-hán chẳng phải A-la-hán là không hai. Chẳng phải quả vị độc giác chẳng phải độc giác là không hai, chẳng phải hành đại Bồ-Tát chẳng phải đại Bồ-Tát là không hai, chẳng phải quả vị giác ngộ cao tột của Chiêu Phật chẳng phải Chiêu Phật là không hai. Như vậy, tất cả pháp sa lì hí luận đều gọi là vô nhị. Cụ thọ Thiên Hiện bạch Phật Bạch Thế Tôn Có phải do hữu sở đắc nên vô sở đắc, hay là do vô sở đắc nên vô sở đắc? Phật dạy Này Thiên Hiện Chẳng phải do hữu sở đắc nên vô sở đắc, cũng chẳng phải do vô sở đắc nên vô sở đắc. Nhưng tánh hữu sở đắc và vô sở đắc bình đẳng nên gọi là vô sở đắc. Như vậy, Thiên Hiện Đại Bồ-Tát đối với tánh bình đẳng của hữu sở đắc và vô sở đắc phải khiên năng tu học. Này Thiên Hiện Đại Bồ-Tát khi học như thế thì gọi là học nghĩa vô sở đắc của bác nhã Ba-la-mật-đa, xa lì các lầm lỗi. Cụ thọ Thiên Hiện bạch Phật Bạch Thế Tôn Đại Bồ-Tát khi hành bác nhã Ba-la-mật-đa chẳng chấp trước hữu sở đắc, chẳng chấp trước vô sở đắc, là Đại Bồ-Tát tu hành bác nhã Ba-la-mật-đa, thì tại sao từ vật này đến vật khác dần dần viên mãng, hoặc không từ vật này đến vật khác dần dần viên mãng? Làm sao để đắc sở cầu là quả vị giác ngộ cao tột? Phật dạy Này Thiên Hiện Đại Bồ-Tát khi hành bác nhã Ba-la-mật-đa chẳng phải trụ trong hữu sở đắc mà tu hành bác nhã Ba-la-mật-đa, để có thể từ vật này đến vật khác dần dần viên mãng, chính đắc quả vị giác ngộ cao tột, cũng chẳng phải trụ trong vô sở đắc mà tu hành bác nhã Ba-la-mật-đa, để có thể từ vật này đến vật khác dần dần viên mãng, chính đắc quả vị giác ngộ cao tột. Vì sao? Này Thiên Hiện Vì bác nhã Ba-la-mật-đa vô sở đắc, quả vị giác ngộ cao tột vô sở đắc, vì người hành bác nhã Ba-la-mật-đa, chỗ hành, khi hành vô sở đắc. Pháp vô sở đắc này cũng vô sở đắc. Này Thiên Hiện Đại Bồ-Tát phải nên tu hành bác nhã Ba-la-mật-đa như thế. Cụ thọ Thiên Hiện bạch Phật Bạch Thế Tôn Nếu bác nhã Ba-la-mật-đa chẳng thể nắm bắt được, quả vị giác ngộ cao tột chẳng thể nắm bắt được, người hành bác nhã Ba-la-mật-đa, chỗ hành, khi hành, cũng chẳng thể nắm bắt được, thì tại sao Đại Bồ-Tát khi tu hành bác nhã Ba-la-mật-đa, đối với tất cả Pháp, thường ưu chọn lừa, đây là sắc, đây là thọ, tưởng, hành, thức, đây là nhãn sướng, đây là nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý sướng, đây là sắc sướng, đây là thanh, hương, vị, súc, Pháp sướng, đây là nhãn giới, đây là nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý giới, đây là sắc giới, đây là thanh, hương, vị, súc, Pháp giới, đây là nhãn thức giới, đây là nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý thức giới, đây là nhãn súc, đây là nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý súc, đây là các thọ do nhãn súc làm duyên sanh ra, đây là các thọ do nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý súc làm duyên sanh ra, đây là địa giới, đây là thủy, hỏa, phong, không, thức giới, đây là vô minh, đây là hành, thức, danh sắc, lực sứ, súc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, thang, khổ, ưu, não. Đây là bố thí Palamarda, đây là tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, bác nhã Palamarda, đây là Pháp không nội, đây là Pháp không ngoại, Pháp không nội ngoại, Pháp không không, Pháp không lớn, Pháp không thắng nỉa, Pháp không hữu vi, Pháp không vô vi, Pháp không rốt cháo, Pháp không không biên giới, Pháp không tạng mạng, Pháp không không đội xác, Pháp không bản tánh, Pháp không tự tướng, Pháp không cộng tướng, Pháp không tất cả pháp, Pháp không chẳng thể nắm bắt được, Pháp không không tánh, Pháp không tự tánh, Pháp không không tánh tự tánh, đây là chân như, đây là Pháp giới, Pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đội xác, tánh bình đẳng, tánh ly xanh, Pháp định, Pháp trụ, thực tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tương nhị, đây là bốn niệm trụ, đây là bốn chánh đoạn. Bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căng, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo, đây là thánh đế khổ, đây là thánh đế tập, diệt, đạo, đây là bốn tình lự, đây là bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Đây là Pháp môn giải thoát không, đây là Pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện, đây là tám giải thoát, đây là tám tháng sướng, chính định thứ đệ, mười biến sướng, đây là Pháp môn Tama Địa, đây là Pháp môn Đà La Nhi, đây là năm loại mắt, đây là sáu phép thần thông, đây là mười lực Phật, đây là bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại tử, đại bi, đại hỷ, đại xã, mười tám Pháp Phật bất cộng, đây là Pháp không quên mất, đây là tánh luôn luôn xã, đây là trí nhất thiết. Đây là trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, đây là quả dự lưu, đây là quả nhất lai, bất hoàng, A-la-háng, đây là quả vị độc giác, đây là tất cả hành đại Bồ-Tát, đây là quả vị giác ngộ cao tột của chiêu Phật.