Home Page
cover of kinhdaibatnha (504)
kinhdaibatnha (504)

kinhdaibatnha (504)

Phuc Tien

0 followers

00:00-46:36

Nothing to say, yet

Podcastspeech synthesizerspeechnarrationmonologuemale speech
0
Plays
0
Shares

Audio hosting, extended storage and much more

AI Mastering

Transcription

This transcription discusses the benefits of teaching and guiding others towards enlightenment. It emphasizes that those who teach others to be virtuous and cultivate good deeds will receive many blessings. It also states that helping others escape from negative realms and achieve higher levels of enlightenment will result in even greater blessings. The transcription also mentions the importance of spreading the teachings and scriptures to benefit others. Overall, it highlights the significance of teaching and guiding others towards spiritual growth and the attainment of enlightenment. Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa Tập 21, Quyển 504, Tám Phẩm Phước Tụ 02 Lại nữa, Triều Thi Ca. Nếu các thiện nam, thiện nữ v.v. nào giáo hóa một hữu tình an trụ quả dự lưu thì sẽ được nhiều phước đức, húng chi là giáo hóa các hữu tình ở châu thiện bộ đều khiến an trụ mười thiện nhiệt đạo. Vì sao? Vì khi các hữu tình an trụ nơi mười thiện nhiệt đạo thì vẫn chưa thoát hẳn cảnh giới địa ngục, bàn xanh, ngà quỷ. Nếu các hữu tình trụ ở quả dự lưu liền vĩnh viễn thoát khỏi các đường ác hiểm, húng chi là giáo hóa, làm cho họ an trụ quả nhất lai, bất hoàng, à la háng, sẽ đạt được phước đức thù thắng hơn kia rất nhiều. Triều Thi Ca Nếu các thiện nam, thiện nữ v.v. nào giáo hóa các hữu tình ở châu thiện bộ đều được an trụ quả dự lưu, nhất lai, bất hoàng, à la háng thì được nhiều phước đức, nhưng không giống như có người giáo hóa chỉ một hữu tình an trụ nơi độc giác bồ đề. Vì sao? Vì công đức của độc giác bồ đề hơn dự lưu v.v. gấp trăm ngàn lần. Triều Thi Ca Nếu các thiện nam, thiện nữ v.v. nào giáo hóa các hữu tình ở châu thiện bộ đều an trụ độc giác bồ đề thì sẽ được nhiều phước đức, nhưng không giống như có người giáo hóa một hữu tình đạt được quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề. Vì sao? Vì nếu giáo hóa hữu tình đạt được quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề thì làm cho Phật nhãn ở thế gian không gián đoạn. Vì sao? Triều Thi Ca Vì do có Đại Bồ Tát liền có quả dự lưu, nhất Lai, Bất Hoàng, A-la-hán, độc giác bồ đề, cũng có như Lai ứng chánh đẳng giác chuyển Pháp Luân Vi Diệu, trú độ các hữu tình. Các Đại Bồ Tát đều nương tựa Bát Nhã Ba-la-mật-đa mà được thành tựu. Vì sao? Triều Thi Ca Vì các thiện nam, thiện nữ V.V. này viết chép kinh điển Bát Nhã Ba-la-mật-đa thậm thâm cho người khác độc tụng. Nếu viết chép, lưu truyền rộng đải thì được nhiều phước đức hơn trước vô lượng, vô biên. Vì sao? Vì trong tạng bí mật Bát Nhã Ba-la-mật-đa thậm thâm rộng nói thiện Pháp thế gian và suốt thế gian. Nếu nương tựa thiện Pháp này thì thế gian liền có Đại Tộc Sát Đế Lợi cho đến Đại Tộc Cư Sĩ, Trời Tứ Đại Thiên Vương cho đến Trời Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Sướng. Cũng có Bố Thí Ba-la-mật-đa cho đến Trí Nhất Thiết Tướng. Cũng có Quả Dự Lưu, Nhất Lai, Bất Hoạn, A-la-hán, Độc Giác Bồ Đệ, và tất cả Đại Bồ Tát thực hành quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đệ của Chiêu Phật. Cũng có Dự Lưu cho đến cũng có Chiêu Phật thiết lập có thể đắc. Lại nữa Kiều Thi Ca. Đó là nói các loài hữu tình ở châu thiện bộ. Nếu các thiện nam, thiện nữ V, V, giáo hóa các hữu tình ở bốn đại châu đều được an trụ mười thiện nghiệp đạo, thì ý ông thế nào? Thuyết đó có khác trước không? Lại nữa Kiều Thi Ca. Đó là nói các loài hữu tình ở châu thiện bộ. Nếu các thiện nam, thiện nữ V, V, giáo hóa các hữu tình ở bốn đại châu đều được an trụ mười thiện nghiệp đạo, thì ý ông thế nào? Thuyết đó có khác trước không? Lại nữa Kiều Thi Ca. Đó là nói các loài hữu tình ở tiểu thiên giới. Nếu các thiện nam, thiện nữ V, V, giáo hóa các loài hữu tình ở trung thiên giới đều được an trụ mười thiện nghiệp đạo, thì ý ông thế nào? Thuyết đó có khác trước không? Lại nữa Kiều Thi Ca. Đó là nói các loài hữu tình ở trung thiên giới. Nếu các thiện nam, thiện nữ V, V, giáo hóa các loài hữu tình ở đại thiên giới đều được an trụ mười thiện nghiệp đạo, thì ý ông thế nào? Thuyết đó có khác trước không? Lại nữa Kiều Thi Ca. Đó là nói các loài hữu tình ở đại thiên giới. Nếu các thiện nam, thiện nữ V, V, giáo hóa các loài hữu tình ở mười phương hàng hạ sa V, V, thế giới đều được an trụ mười thiện nghiệp đạo, thì ý ông thế nào? Thuyết đó có khác trước không? Lại nữa Kiều Thi Ca. Đó là nói các loài hữu tình ở mười phương hàng hạ sa V, V, thế giới. Nếu các thiện nam, thiện nữ V, V, giáo hóa các loài hữu tình ở tất cả thế giới mười phương đều được an trụ mười thiện nghiệp đạo, thì ý ông thế nào? Thuyết đó có khác trước không? Lại nữa Kiều Thi Ca. Nếu các thiện nam, thiện nữ V, V, nào giáo hóa các loài hữu tình ở châu thiện bộ đều được an trụ bốn tình lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, năm thần thông, thì ý ông thế nào? Các thiện nam, thiện nữ V, V, này nhờ nhân duyên ấy mà được phước nhiều chăng? Trời đế thích bạch Phật. Bạch Thế Tôn. Rất nhiều. Bạch Thiện Thể. Rất nhiều. Phật dạy. Kiều Thi Ca. Nếu các thiện nam, thiện nữ V, V, nào viết chép kinh điển bác nhã Ba La Mật Đa thầm thâm cho người độc tụng, khi viết chép lưu truyền rộng đại thì các thiện nam, thiện nữ V, V, này sẽ được phước đức hơn trước rất nhiều. Vì sao? Kiều Thi Ca. Vì trong nghĩa bí mật bác nhã Ba La Mật Đa thầm thâm cho đến tất cả Pháp vô lậu, các thiện nam, thiện nữ V, V, đã học, đang học, sẽ học trong đó, hoặc đã nhập, đang nhập, sẽ nhập chánh tánh ly xanh của chủng tánh thanh văn, lần lần cho đến đã chứng, đang chứng, sẽ chứng quả A-la-hán, hoặc đã nhập, đang nhập, sẽ nhập chánh tánh ly xanh của chủng tánh độc giác, lần lần cho đến đã chứng, đang chứng, sẽ chứng độc giác bộ đệ, hoặc đã nhập, đang nhập, sẽ nhập chánh tánh ly xanh của chủng tánh thanh văn, lần lần cho đến đã chứng chánh tánh ly xanh của chủng tánh Bồ Tát, lần lần tu hành các Bồ Tát hành đã chứng, đang chứng, sẽ chứng quả vị vô thường chánh đẳng bộ đệ. Kiều Thi Ca. Trong tạng bí mật bác nhã Ba La Mật Đa thầm thâm đã thuyết tất cả Pháp vô lậu, đó là bố thí Ba La Mật Đa cho đến trí nhất thiết tướng, hoặc vô lượng, vô biên Phật Pháp khác, đều thuyết tất cả Pháp vô lậu trong đây. Kiều Thi Ca. Nếu các thiện nam, thiện nữ v.v. nào giáo hóa một hữu tình an trụ quả dự lưu sẽ được phước đức, thì húng chi giáo hóa các hữu tình ở châu thiền bộ đều được an trụ bốn tình lựu, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, năm thần thông. Vì sao? Vì các hữu tình an trụ bốn tình lựu, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, năm thần thông thì không còn qua lại cõi địa ngục, bàn xanh, nhà quỷ. Nếu các hữu tình an trụ quả dự lưu liền được chấm dứt, thoát khỏi các đường hiểm ác, húng chi là giáo hóa họ an trụ nơi quả nhất lai, bất hoàng, à la hãng, sẽ được phước đức hơn phước đức trước. Kiều Thi Ca Nếu các thiện nam, thiện nữ v.v. nào giáo hóa các hữu tình ở châu thiền bộ đều được an trụ quả dự lưu, nhất lai, bất hoàng, à la hãng, được nhiều phước đức không giống như có người giáo hóa một hữu tình, làm cho vị ấy được an trụ độc giác bồ đề. Vì sao? Vì công đức của độc giác bồ đề thù thắng hơn dự lưu v.v. hơn gấp trăm ngàn lần. Kiều Thi Ca Nếu các thiện nam, thiện nữ v.v. nào giáo hóa các hữu tình ở châu thiền bộ đều được an trụ độc giác bồ đề, hưởng nhiều phước đức, không giống như có người giáo hóa một hữu tình, khiến họ đạt được quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề. Vì sao? Vì nếu giáo hóa hữu tình làm cho đạt được quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề, thì làm cho Phật nhãn ở thế gian không đoạn tuyệt. Vì sao? Kiều Thi Ca Vì do có đại bộ tác nên có quả dự lưu, nhất lai, bất hoàng, à la hãng, độc giác bồ đề, cũng có như lai ứng chánh đẳng giác, chuyển pháp luôn vi diệu, đổ thoát chúng hữu tình. Các đại bộ tác đều nương tựa bác nhã Palamuddha mà thành tựu. Do vậy, Kiều Thi Ca Nếu các thiện nam, thiện nữ v.v. viết chết kinh điển bác nhã Palamuddha thầm thâm cho người độc tụng, hoặc truyền nhau viết chết, lưu truyền, bổ thí cùng khắp, thì được phước đức nhiều hơn trước vô lượng, vô biên. Vì sao? Vì trong tạng bí mật bác nhã Palamuddha thầm thâm, cho đến thiện pháp thế gian và phước thế gian, là nương tựa thiện pháp này thì thế gian liện có đại tộc sát đế lợi, cho đến cũng có chiêu Phật thiết lập có thể đắc. Lại nữa, Kiều Thi Ca Đó là các loại hữu tình ở châu thiện bộ. Nếu các thiện nam, thiện nữ v.v. giáo hóa các hữu tình ở bốn đại châu đều được an trụ bốn tình lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, năm thần thông, thì ý ông thế nào? Thuyết đó có khác trước không? Lại nữa, Kiều Thi Ca Đó là các loại hữu tình ở bốn đại châu. Nếu các thiện nam, thiện nữ v.v. nào giáo hóa các hữu tình ở tiểu thiên giới đều làm cho an trụ bốn tình lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, năm thần thông, thì ý ông thế nào? Thuyết đó có khác trước không? Lại nữa, Kiều Thi Ca Đó là các loại hữu tình ở tiểu thiên giới. Nếu các thiện nam, thiện nữ v.v. nào giáo hóa các hữu tình ở trung thiên giới đều được an trụ bốn tình lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, năm thần thông, thì ý ông thế nào? Thuyết đó có khác trước không? Lại nữa, Kiều Thi Ca Đó là các loại hữu tình ở trung thiên giới. Nếu các thiện nam, thiện nữ v.v. nào giáo hóa các loại hữu tình ở đại thiên giới đều được an trụ bốn tình lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, năm thần thông, thì ý ông thế nào? Thuyết đó có khác trước không? Lại nữa, Kiều Thi Ca Đó là các loại hữu tình ở đại thiên giới. Nếu các thiện nam, thiện nữ v.v. nào giáo hóa các loại hữu tình ở mười phương hàng hà sa v.v. thế giới đều được an trụ bốn tình lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, năm thần thông, thì ý ông thế nào? Thuyết đó có khác trước không? Lại nữa, Kiều Thi Ca Đó là các loại hữu tình ở mười phương hàng hà sa v.v. thế giới. Nếu các thiện nam, thiện nữ v.v. nào giáo hóa các loại hữu tình ở tất cả thế giới mười phương đều được an trụ bốn tình lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, năm thần thông, thì ý ông thế nào? Thuyết đó có khác trước không? Lại nữa, Kiều Thi Ca Nếu các thiện nam, thiện nữ v.v. đối với kinh điển bát nhã Palamata thầm thâm này mà chỉ cầm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh trần tu học, suy nghĩ đúng lý thì được nhiều phước đức hơn việc giáo hóa các loại hữu tình ở một châu thiện bộ, khiến an trụ mười thiện nghiệp đạo, bốn tình lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, năm thần thông. Cũng hơn việc giáo hóa các loại hữu tình ở bốn đại châu. Cũng hơn việc giáo hóa các loại hữu tình ở tiểu thiên giới. Cũng hơn việc giáo hóa các loại hữu tình ở trung thiên giới. Cũng hơn việc giáo hóa các loại hữu tình ở đại thiên giới. Cũng hơn việc giáo hóa các loại hữu tình ở mười phương hàng hạ sa v.v. thế giới. Cũng hơn việc giáo hóa các loại hữu tình ở thế giới mười phương, khiến được an trụ mười thiện nghiệp đạo, bốn tình lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, năm thần thông. Kiều Thi Ca Trong đây suy nghĩ đúng lý, nghĩa là chẳng phải hai, chẳng phải không hai hành, vì cầu quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề nên suy nghĩ bác nhã Palamarda cho đến bố thí Palamarda. Như vậy cho đến vì chẳng phải hai, chẳng phải không hai hành, chỉ vì cầu quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề nên suy nghĩ trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Lại nữa, Kiều Thi Ca Nếu các thiện nam, thiện nữ v.v. đối với kinh điển bác nhã Palamarda thầm thâm, dùng vô lượng pháp môn để thuyết giảng cho người khác, bằng cách tuyên thuyết, hiển thị, sai sáng, diễn giải, giải thích rõ ràng, phân biệt ý nghĩa để họ hiểu dễ dàng thì được nhiều phước đức. Còn tự mình lắng nghe, thỏ trị, đọc tụng, tinh cận tu học, suy nghĩ đúng lý bác nhã Palamarda thầm thâm thì sẽ được gấp bội vô lượng công đức kia. Kiều Thi Ca Nghĩa lý bác nhã Palamarda trong đây là nghĩa lý ấy thuộc của bác nhã Palamarda, không nên dùng hai tướng để quán, cũng không nên dùng không hai tướng để quán. Chẳng có tướng, chẳng vô tướng, chẳng nhập, chẳng xuất, chẳng tăng, chẳng giảm, chẳng nhiễm, chẳng tình, chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng lấy, chẳng bỏ, chẳng chấp, chẳng bất chấp, chẳng trụ, chẳng không trụ, chẳng thật, chẳng không thật, chẳng hợp, chẳng tan, chẳng tương ưng, chẳng bất tương ưng, chẳng ít phần, chẳng phải chẳng ít phần, chẳng toàn phần, chẳng phải chẳng toàn phần, chẳ thật tế, chẳng phi thật tế. Vô lượng pháp môn, nghĩa lý như vậy. Lại nữa, Kiều Thi Ca. Nếu các thiện nam, thiện nữ V, V, nào, tự mình đối với kinh điển bát nhã Palamarda thầm thâm này mà chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, suy nghĩ đúng lý, dùng vô lượng pháp môn giãn động cho người khác, tuyên thuyết, hiển thị, sai sáng, giải thích rõ ràng, phân biệt nghĩa lý, làm cho người kia dễ hiểu, thì được nhiều phước đức, vượt qua phước đức trước vô lượng, vô biên. Khi ấy, trời đế thích liền bạch Phật. Bạch Thế Tôn. Các thiện nam, thiện nữ V, V, đó phải dùng các loại văn nghĩa thiện xảo để tuyên thuyết bát nhã Palamarda thầm thâm cho người khác nghe. Bây giờ, Phật bảo trời đế thích. Đúng vậy. Đúng vậy. Đúng như lời ông nói. Các thiện nam, thiện nữ V, V, phải dùng các loại văn nghĩa thiện xảo để tuyên thuyết bát nhã Palamarda thầm thâm cho người khác. Nếu thiện nam, thiện nữ V, V, nào có thể dùng các loại văn nghĩa thiện xảo để tuyên thuyết bát nhã Palamarda thầm thâm cho người khác, thì thành tựu vô lượng, vô biên công đức lớn không thể nghĩ bàn. Kiều Thi Ca Các thiện nam, thiện nữ V, V, trọn đời mình dùng vô lượng tràng hoa thường dịu cho đến đèn sáng và đủ loại vật dùng khác mà cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen tất cả như lai ứng chánh đẳng giác ở mười phương vô lượng, vô biên thế giới. Có các thiện nam, thiện nữ V, V, tự mình đối với kinh điển bát nhã Palamarda thầm thâm, chỉ cầm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, suy nghĩ đúng lý, lại theo các loại văn nghĩa thiện xảo, dùng vô lượng pháp môn để giảng động cho người khác bằng cách tuyên thuyết, trình bày, sai sáng, giải thích rõ ràng, phân biệt nghĩa lý, để họ dễ hiểu, thì sẽ được phước đức hơn phước đức trước rất nhiều. Vì sao? Vì chư Phật ba đời đều nương tự vào bát nhã Palamarda, để tinh cần tu học chính đắc quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề. Lại nữa, Kiều Thi Ca. Có thiện nam, thiện nữ V, V, nào ở vô lượng, vô biên đại kiếp, dùng có sở đắc làm phương tiện, suy năng tu học bố thí cho đến bát nhã Palamarda. Còn có thiện nam, thiện nữ V, V, đối với bát nhã Palamarda thầm thâm, dùng vô sở đắc làm phương tiện, chỉ tâm lắng nghe, thỏ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, suy nghĩ đúng lý, lại dùng các loại văn nghĩa thiện xảo, dù chỉ trong chốc lát thuyết giảng cho người khác bằng cách tuyên thuyết, trình bày, sai sáng, giải thích rõ ràng, phân biệt nghĩa lý, để cho họ dễ hiểu, thì được phước đức hơn phước đức trước rất nhiều. Kiều Thi Ca Người còn có sở đắc nghĩa là thiện nam, thiện nữ V, V, khi tu hành bố thí, liền nghĩ như vậy, ta là người bố thí, người kia là kẻ nhận, đây là quả của sự bố thí, việc thí và vật thí. Khi người kia tu bố thí như vậy gọi là trụ bố thí, chứ không gọi là bố thí Palamarda. Khi tu tịnh giới, lại nghĩ như vậy, ta tu trị giới vì để hộ trị, đây là quả của giới và chỗ trị giới. Khi người kia tu tịnh giới như vậy gọi là trụ tịnh giới chứ không phải tịnh giới Palamarda. Khi tu an nhẫn, lại nghĩ như vậy, ta tu an nhẫn vì để hộ trị sự cố kia, đây là quả của nhẫn nhục và tự tánh nhẫn nhục. Khi người kia tu nhẫn như vậy gọi là trụ an nhẫn chứ không phải an nhẫn Palamarda. Khi tu tinh tấn, lại nghĩ như vậy, ta tu tinh tấn vì để đoạn trừ sự giải đải, đây là quả tinh tấn và tự tánh tinh tấn. Khi người kia tu tinh tấn như vậy gọi là trụ tinh tấn chứ không phải tinh tấn Palamarda. Khi tu tịnh lự, lại nghĩ như vậy, ta tu thiền định, kia là cảnh định, đây là quả định và tự tánh định. Khi người kia tu thiền định như vậy gọi là trụ tịnh lự chứ không phải tịnh lự Palamarda. Khi tu bác nhã, lại nghĩ như vậy, ta tu trí tuệ, kia là cảnh tuệ, đây là quả tuệ và tự tánh tuệ. Khi người kia tu tuệ như vậy gọi là trụ bác nhã chứ không phải bác nhã Palamarda. Kiều Thi Ca Các thiện nam, thiện nữ v.v. này dùng có sở đắc làm phương tiện, nên không được viên mãn bố thí v.v. sáu pháp Palamarda. Lúc đó, trời đế thích liền bạch Phật. Bạch Thế Tôn Các đại Bồ Tát làm sao tu hành sáu pháp Palamarda như bố thí v.v. được viên mãn. Phật bảo trời đế thích Khi đại Bồ Tát tu hành bố thí, không nghĩ mình cho, người nhận, quả thí và vật thí. Như vậy cho đến khi tu hành bác nhã không nghĩ mình là người trí tuệ, cảnh tuệ, quả tuệ, và tự tánh tuệ. Vì dùng vô sở đắc làm phương tiện nên đại Bồ Tát liền được viên mãn bố thí v.v. sáu pháp Palamarda. Kiều Thi Ca Các đại Bồ Tát nên dùng trí tuệ vô sở đắc như vậy và các phăn nghĩa xảo diệu để tuyên thuyết bác nhã cho đến bố thí Palamarda. Vì sao? Vì đời vĩ lai sẽ có các thiện nam, thiện nữ v.v. nào dùng có sở đắc làm phương tiện, vì người khác tuyên thuyết trương tợ bác nhã cho đến bố thí Palamarda. Người mới phát tâm quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đề, nghe thuyết trương tợ bác nhã cho đến bố thí Palamarda, tâm liền mê lầm, thối thất trung đạo. Cho nên phải dùng trí tuệ vô sở đắc và các loại phăn nghĩa xảo diệu, vì người phát tâm quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đề mà tuyên thuyết bác nhã cho đến bố thí Palamarda. Khi ấy, Trời đế thích lại Bạch Phật. Bạch Thế Tôn Sao gọi là tuyên thuyết trương tợ bác nhã, tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Palamarda? Bây giờ, Phật bảo Trời đế thích Nếu các thiện nam, thiện nữ v.v. tuyên thuyết bác nhã v.v. sáu pháp Palamarda có sở đắc, như vậy gọi là tuyên thuyết trương tợ bác nhã, tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Palamarda. Trời đế thích lại Bạch Phật. Bạch Thế Tôn Sao gọi là các thiện nam, thiện nữ v.v. loại thuyết bác nhã v.v. sáu pháp Palamarda có sở đắc? Phật dạy Kiều Thi Ca Nếu các thiện nam, thiện nữ v.v. vì người phát tâm quả vị vô thường chánh đẳng bồ đệ mà tuyên thuyết sát cho đến thức là thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, như vậy cho đến thuyết trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng là thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, còn nói như vậy, nếu ai có thể y cứu vào Pháp như vậy để tu hành bác nhã cho đến bố thí Palamarda, thì gọi là tu hành bác nhã cho. Đến bố thí Palamarda Lại nói như vậy, người tu hành bác nhã cho đến bố thí Palamarda phải nên cầu sát cho đến trí nhất thiết tướng hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh. Nếu có thể cầu các Pháp v.v. như vậy mà tu hành bác nhã cho đến bố thí Palamarda, thì gọi là tu hành bác nhã cho đến bố thí Palamarda. Kiều Thi Ca Nếu có người cầu sát cho đến trí nhất thiết tướng như vậy hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, nương tợ các Pháp này mà tu hành bác nhã cho đến bố thí Palamarda, thì ta gọi là tu hành tương tợ bác nhã cho đến bố thí Palamarda có sở đắc. Kiều Thi Ca Lời nói như trên nên viết đều thuyết tương tợ bác nhã cho đến bố thí Palamarda có sở đắc. Lại nữa, Kiều Thi Ca Nếu các thiện nam, thiện nữ v.v. nào vì người phát tâm quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề, tuyên thuyết bác nhã cho đến bố thí Palamarda, nói như vậy, lại đây, thiện nam tử, ta sẽ dạy cho ông tu học bác nhã cho đến bố thí Palamarda. Nên y theo lời dạy của ta mà tu học, sẽ mau chóng an trụ sơ địa Bồ Tát cho đến thập địa Bồ Tát. Kiều Thi Ca Người đó dùng hữu tướng và có sở đắc làm phương tiện, y vào sự phân tưởng về giai đoạn, dạy tu bác nhã cho đến bố thí Palamarda, gọi là tuyên thuyết tương tợ bác nhã cho đến bố thí Palamarda. Lại nữa, Kiều Thi Ca Nếu các thiện nam, thiện nữ V.V. nào vì người phát tâm quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề, tuyên thuyết bác nhã cho đến bố thí Palamarda, nói như vậy, lại đây, thiện nam tử, ta sẽ dạy cho ông tu học bác nhã cho đến bố thí Palamarda. Nên y theo lời dạy của ta mà tu học, thì mau chóng vượt qua bật thanh văn, độc giác V.V., nhanh chóng nhập vào chánh tánh ly xanh của Bồ Tát, được vô sanh pháp nhẫn của các đại Bồ Tát và thần thông thù thắng của Bồ Tát, có thể ở tất cả cõi Phật mười phương để cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi sen chiêu Phật thế tôn. Do đó, mau chính trí nhất thiết trí. Kiều Thi Ca Người kia dùng hữu tướng và có sở đắc làm phương tiện, y vào sự phân tưởng về giai đoạn, dạy tu hành bác nhã cho đến bố thí Palamarda thì gọi là tuyên thuyết tương tựa bác nhã cho đến bố thí Palamarda. Lại nữa, Kiều Thi Ca Nếu các thiện nam, thiện nữ V.V. nào bảo người chủng tánh Bồ Tát thừa, nếu đối với kinh điển bác nhã Palamarda thầm thâm này mà chỉ cầm lắng nghe, thòi tri, đọc tụng, tinh trần tu học, suy nghĩ đúng lý, nhất định sẽ được vô lượng, vô biên công đức. Kiều Thi Ca Người đó dùng hữu tướng và có sở đắc làm phương tiện nên nói như vậy, gọi là tuyên thuyết tương tựa bác nhã cho đến bố thí Palamarda. Lại nữa, Kiều Thi Ca Nếu các thiện nam, thiện nữ V.V. nào bảo người chủng tánh Bồ Tát thừa, ông đối với chiêu Phật thế tôn ba đời, từ lúc mới phát tâm cho đến rốt tráo có được bao nhiêu thiện căng đều nên tùy hỷ, tập hợp tất cả, vì các hữu tình hội hướng quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề. Kiều Thi Ca Người đó dùng hữu tướng và có sở đắc làm phương tiện nên nói như vậy, thì gọi là tuyên thuyết tương tựa bác nhã cho đến bố thí Palamarda. Khi ấy, trời đế thích lại bạch Phật. Bạch Thế Tôn Sao gọi là tuyên thuyết chân chánh bác nhã cho đến bố thí Palamarda? Phật Dạy Kiều Thi Ca Nếu các thiện nam, thiện nữ V.V. dùng vô sở đắc làm phương tiện, tuyên thuyết bác nhã cho đến bố thí Palamarda gọi là tuyên thuyết chân chánh bác nhã cho đến bố thí Palamarda. Khi ấy, trời đế thích lại bạch Phật. Bạch Thế Tôn Sao gọi là các thiện nam, thiện nữ V.V. dùng vô sở đắc làm phương tiện, tuyên thuyết bác nhã cho đến bố thí Palamarda? Phật Dạy Kiều Thi Ca Nếu các thiện nam, thiện nữ V.V. vì người phát tâm bồ đề đại thừa mà tuyên thuyết bác nhã cho đến bố thí Palamarda, nói như vậy, thiện nam tử, đến đây. Ông nên tu bác nhã cho đến bố thí Palamarda. Khi ông đang tu, không nên quán sát sát cho đến trí nhất thiết tướng hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh. Vì sao? Thiện nam tử. Vì sát, sát là tự tánh không? Cho đến trí nhất thiết tướng, trí nhất thiết tướng là tự tánh không? Tự tánh của sát tức chẳng phải tự tánh, cho đến tự tánh trí nhất thiết tướng tức chẳng phải tự tánh. Nếu chẳng phải tự tánh tức là bác nhã cho đến bố thí Palamarda. Đối với bác nhã cho đến bố thí Palamarda này thì sát cho đến trí nhất thiết tướng đều bất khả đắc. Pháp ấy thường, vô thường, vui, khổ, ngã, vô ngã, tịnh, bất tịnh cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì trong đây không có sát v, v có thể đắc, húng dì Pháp ấy thường, vô thường, vui, khổ, ngã, vô ngã, tịnh, bất tịnh có thể đắc. Thiện nam tử. Nếu ông có thể tu bác nhã cho đến bố thí Palamarda như thế thì gọi là tu bác nhã cho đến bố thí Palamarda. Kiều thi ca. Các thiện nam, thiện nữ v, v này nói những điều như vậy là tuyên thuyết chân chánh bác nhã cho đến bố thí Palamarda. Lại nữa, kiều thi ca. Nếu các thiện nam, thiện nữ v, v nào vì người phát tâm đại thừa bồ đệ tuyên thuyết bác nhã cho đến bố thí Palamarda nói như vậy, thiện nam tử. Hãy đến đây, ta sẽ dạy cho ông tu học bác nhã cho đến bố thí Palamarda. Khi ông tu học chớ quán các pháp có một ít có thể trụ, có thể vượt, có thể nhập, có thể đắc, có thể chứng, có thể lắng nghe v, v sẽ đạt được công đức thù thắng và có thể tùy hỷ hồi hướng bồ đệ. Vì sao? Thiện nam tử. Vì đối với bác nhã cho đến bố thí Palamarda này, hoàn toàn không có chức pháp nào có thể trụ, có thể vượt, có thể nhập, có thể đắc, có thể chứng, có thể lắng nghe v, v sẽ đạt được công đức thù thắng và có thể tùy hỷ hồi hướng bồ đệ. Vì sao? Vì tự tánh của tất cả pháp đều không. Nếu tự tánh không thì vô sở hữu. Nếu vô sở hữu là bác nhã cho đến bố thí Palamarda. Đối với bác nhã cho đến bố thí Palamarda hoàn toàn không có chức pháp gì có nhập, có xuất, có sanh, có việt, có đoạn, có thường, có giống, có khác, có đến, có đi mà có thể đắc. Kiều Thi Ca. Các thiện nam, thiện nữ v, v, nói những lời ấy ngược lại với tất cả những điều đã nói ở trong các phần trên, thì gọi là tuyên thuyết chân chánh bác nhã cho đến bố thí Palamarda. Vì vậy, Kiều Thi Ca. Các thiện nam, thiện nữ v, v, nên đối với kinh điển bác nhã Palamarda thầm thâm, dùng vô sở đắc làm phương tiện, chỉ tâm lắng nghe, họ trì, đọc tụng, nhiệt tâm, tinh cần tu học, suy nghĩ đúng lý, dùng các loại văn nghĩa xảo dịu để thuyết giảng cho người khác, bằng cách tuyên thuyết, trình bày, khai sáng, giải thích rõ ràng, phân biệt nghĩa lý, để họ dễ hiểu. Kiều Thi Ca. Do nhân duyên này, nên ta nói, nếu các thiện nam, thiện nữ v, v, đối với bác nhã Palamarda, dùng vô sở đắc làm phương tiện, chỉ tâm lắng nghe, họ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, suy nghĩ đúng lý, lại dùng các loại văn nghĩa xảo dịu dù chỉ trong chốc lát thuyết giảng cho người khác, bằng cách tuyên thuyết, trình bày, khai sáng, diễn giảng, giải thích rõ ràng, phân biệt nghĩa lý, để họ dễ hiểu, thì đạt được công đức hơn trước rất nhiều. Lại nữa, Kiều Thi Ca. Nếu các thiện nam, thiện nữ v, v, nào giáo hóa các loại hữu tình ở châu thiện bộ, các loại hữu tình ở bốn đại châu, các loại hữu tình ở tiểu thiên giới, các loại hữu tình ở trung thiên giới, các loại hữu tình ở đại thiên giới, các loại hữu tình ở mười phương hàng hạ sa v, v, thế giới, các loại hữu tình ở mười phương vô biên thế giới đều an trụ quả dự lưu, nhất lai, bất hoàng, à la hán, độc giác bồ đệ, thì ý ông thế nào? Các thiện nam, thiện nữ v, v, này, do nhân duyên đây mà có được nhiều phước đức không? Trời đế thích bạch Phật. Bạch Thế Tôn. Rất nhiều. Bạch Thiện Thệ. Rất nhiều. Phật Dạy. Kiều Thi Ca. Các thiện nam, thiện nữ v, v, nào đối với kinh điển Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa-Thầm-Thâm, dùng vô lượng pháp môn, văn nghĩa xảo dịu, thuyết giảng cho người khác, bằng cách tuyên thuyết, trình bày, sai sáng, giải thích rõ ràng, phân biệt nghĩa lý, để họ dễ hiểu, lại nói như vậy, thiện nam tử, đến đây. Ông nên đối với Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa-Thầm-Thâm này mà chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, khiến cho thông thạo lanh lợi, suy nghĩ đúng lý, tùy theo pháp môn này mà suy năng tu học. Các thiện nam, thiện nữ v, v, này sẽ đạt được công đức hơn trước rất nhiều. Vì sao? Kiều Thi Ca. Vì tất cả quả dự lưu, nhất là, Bất Hoàng, A-La-Hán, độc giác bồ đệ đều do Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa này phát phước ra. Lại nữa, Kiều Thi Ca. Nếu các thiện nam, thiện nữ v, v, nào giáo hóa các loại hữu tình ở châu thiện bộ, các loại hữu tình ở bốn đại châu, các loại hữu tình ở tiểu thiên giới, các loại hữu tình ở trung thiên giới, các loại hữu tình ở đại thiên giới, các loại hữu tình ở mười phương hàng hà sa v, v, thế giới, đều phát tâm quả vị vô thường chánh đẳng bồ đệ, hoặc an trụ bồ tát bất thối chuyển, thì ý ông thế nào? Thiện nam, thiện nữ v, v, này do nhân duyên đây mà được nhiều phước đức không? Trời đế thích bạch Phật. Bạch Thế Tôn. Rất nhiều. Bạch Thiện Thể. Rất nhiều. Phật Dạy. Kiều Thi Ca. Nếu các thiện nam, thiện nữ v, v, đối với kinh điển Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa-Thầm-Thâm này, dùng vô lượng pháp môn, văn nghĩa xảo diệu thuyết giảng cho người khác, bằng cách tuyên thuyết, trình bày, khai sáng, giải thích rõ ràng, phân biệt nghĩa lý để họ dễ hiểu. Lại nói như vậy, thiện nam tử, đến đây. Ông nên đối với Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa-Thầm-Thâm này mà chí tâm lắng nghe, thỏ trị, đọc tụng, làm cho thông thạo lanh lợi, lợi ích, suy nghĩ đúng lý, tùy theo pháp môn này mà nên hiểu đúng đắn. Nếu tin hiểu đúng đắn rồi thì có thể tu học Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa-Thầm-Thâm. Nếu có thể tu học Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa-Thầm-Thâm được thì có thể chứng đắc tất cả pháp trí. Nếu có thể chứng đắc tất cả pháp trí thì tu học Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa được tăng ít, viên mãng. Nếu tu Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa tăng ít viên mãng, liền chứng đắc quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề. Kiều Thi Ca Các thiện nam, thiện nữ V.V. này sẽ đạt được công đức hơn trước rất nhiều. Vì sao? Kiều Thi Ca Vì tất cả Đại Bồ-Tát mới phát tâm quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề, tất cả Đại Bồ-Tát an trụ bật bất thối chuyển cho đến quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề đều là do Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa này phát sinh ra. Lại nữa, Kiều Thi Ca Nếu các loài hữu tình ở châu thiện bộ, các loài hữu tình ở bốn đại châu, các loài hữu tình ở tiểu thiên giới, các loài hữu tình ở trung thiên giới, các loài hữu tình ở đại thiên giới, các loài hữu tình ở mười phương hàng hạ sa V.V. thế giới đều đếm quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề. Còn có các thiện nam, thiện nữ V.V. đối với kinh điển Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa thầm thâm dùng vô lượng pháp môn, văn nghĩa xảo dịu, thuyết giảng cho người khác bằng cách tuyên thuyết, trình bày, khai sáng, giải thích rõ ràng, phân biệt nghĩa lý để họ dễ hiểu. Lại nói như vầy, thiện nam tử, đến đây! Ông nên đối với Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa thầm thâm này mà chí tâm lắng nghe, thỏ trị, đọc tụng, khiến cho thông thạo lanh lợi, suy nghĩ đúng lý, tùy theo pháp môn này mà nên tin hiểu đúng đắn. Nếu tin hiểu đúng đắn thì có thể tu học Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa thầm thâm. Nếu tu học Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa thầm thâm thì có thể chứng đắc tất cả pháp trí. Nếu có thể chứng đắc tất cả pháp trí thì tu học Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa được tăng ít viên mãng. Nếu tu học Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa tăng ít viên mãng, liền chứng đắc quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề. Nếu các thiện nam, thiện nữ V.V. gặp một vị đại Bồ Tát bất thối chuyển, đối với kinh điển Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa thầm thâm, dùng vô lượng pháp môn, văn nghĩa xảo dịu, thuyết giảng cho người khác, bằng cách tuyên thuyết, trình bậy, khai sáng, giải thích rõ ràng, phân biệt nghĩa lý để họ dễ hiểu. Lại nói như vậy, thiện nam tử, đến đây! Ông nên thuyết giảng điều này như trước. Kiều Thi Ca Các thiện nam, thiện nữ V.V. này sẽ đạt được công đức hơn trước rất nhiều. Lại nữa, Kiều Thi Ca Các loài hữu tình ở Châu Thiện Bộ, các loài hữu tình ở Bốn Đại Châu, các loài hữu tình ở Tiểu Thiên Giới, các loài hữu tình ở Trung Thiên Giới, các loài hữu tình ở Đại Thiên Giới, các loài hữu tình ở mười phương hàng hạ sa V.V. thế giới, đều được bất thối chuyển nơi quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề. Lại có các thiện nam, thiện nữ V.V. đối với kinh điển Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa-Thầm-Thâm này, dùng vô lường pháp môn, văn nghĩa xảo diệu, thuyết giảng cho người khác, bằng cách tuyên thuyết, trình bày, sai sáng, giải thích rõ ràng, phân biệt nghĩa lý để họ dễ hiểu. Trong đó có một người nói như vậy, này tôi muốn mau chống chính quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề, cứu đổ các loài hữu tình thoát khỏi những khổ sanh tử. Nếu các thiện nam, thiện nữ V.V. nào vì muốn thành tựu điều kia, thì nên dùng vô lường pháp môn, văn nghĩa xảo diệu, thuyết giảng Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa, bằng cách tuyên thuyết, trình bày, sai sáng, giải thích rõ ràng, phân biệt nghĩa lý để họ dễ hiểu. Kiều Thi Ca Các thiện nam, thiện nữ V.V. này sẽ được công đức hơn trước rất nhiều. Lúc bấy giờ, trời đế thích Bạch Phật. Bạch Thế Tôn Đại Bồ Tát như thế đã gần quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề. Đúng vậy! Đúng vậy! Phải nên đem bố thí Ba-La-Mật-Đa cho đến Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa dạy dỗ, trao truyền cho vị ấy. Cho đến đem trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng dạy dỗ, trao truyền cho vị ấy. Nên đem y phục, thức ăn nước uống, ngọa cụ, thuốc men tốt nhất, tùy theo sự cần dùng của vị ấy mà cũng dường các vật cá nhân khác. Bạch Thế Tôn Nếu các thiện nam, thiện nữ V.V. nào có thể dùng tài thí, pháp thí như vậy mà cũng dường cho vị Đại Bồ Tát kia thì thiện nam, thiện nữ V.V. này đạt được công đức hơn trước rất nhiều. Vì sao? Vì Đại Bồ Tát đó nhờ sự cúng dường tài thí, pháp thí như vậy nên mau chống chứng đắc quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề. Khi ấy, cụ thọ thiện hiện báo trời đế thích. Lành thay! Lành thay! Ông đã khuyến khích Đại Bồ Tát kia, có thể gìn giữ Đại Bồ Tát kia, cũng có thể hồ trì Đại Bồ Tát kia. Nay ông đã làm những việc của thánh đệ tử Phật. Vì sao? Kiều Thi Ca Các vị thánh đệ tử của tất cả như Lai vì muốn lợi ích an lạc cho các hữu tình nên dùng phương tiện khuyến khích Đại Bồ Tát kia làm cho vị ấy mau chống chứng đắc sự cầu quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề. Dùng tài thí, pháp thí để cúng dường, giữ gìn, siêng năng hộ trì, giúp đỡ Đại Bồ Tát kia làm cho vị ấy mau chứng đắc sự cầu quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề. Vì sao? Vì tất cả tháng sự ở thế gian của như Lai, Thanh Văn, Độc Giác đều do Đại Bồ Tát kia mà được xuất hiện. Vì sao? Kiều Thi Ca Vì nếu không có Đại Bồ Tát phát tâm quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề thì không có Đại Bồ Tát có thể học sáu pháp Balamudda cho đến trí nhất thiết tướng. Nếu không có Đại Bồ Tát chứng đắc quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề thì không có tháng sự thế gian của như Lai, Thanh Văn, Độc Giác. Kiều Thi Ca Do có Đại Bồ Tát phát tâm quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề, liền có Đại Bồ Tát học sáu pháp Balamudda cho đến trí nhất thiết tướng. Do có Đại Bồ Tát chứng đắc quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề, chuyển pháp luôn vi diệu, có thể chấm dứt cảnh giới địa ngục, bàn sanh, ngạ quỷ, cũng làm giảm bớt bè đẳng Atula và tăng trưởng chúng trời, người. Còn có Đại Tộc sát đế lợi cho đến Đại Tộc cư sĩ xuất hiện ở thế gian. Cũng có Trời Tứ Đại Thiên Vương cho đến Trời Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ xuất hiện ở thế gian. Lại có sáu pháp Balamudda cho đến trí nhất thiết tướng xuất hiện ở thế gian. Lại có thanh văn, độc giác và vô thường thừa xuất hiện ở thế gian. 9. Phẩm Tùy Hỷ Hồi Hướng 0-1 Lúc bấy giờ, Bồ Tát Tư Thị Bảo Cụ Thọ Thiện Hiện Nếu Đại Bồ Tát nào dùng vô sở đắc làm phương tiện, đối với các hữu tình có bao công đức, câu hành tùy hỷ các việc phước nghiệp. Nếu Đại Bồ Tát nào dùng vô sở đắc làm phương tiện, lấy sự câu hành tùy hỷ các phước nghiệp, đem cho các hữu tình một cách bình đẳng, rồi cùng nhau hồi hướng đến quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đề. Hoặc hữu tình khác, tùy hỷ hồi hướng các việc phước nghiệp. Hoặc các việc phước nghiệp của hàng Phạm Phu, Thanh Văn, độc giác đó là bố thí, trì giới tu hành ba việc phước nghiệp, hoặc các việc phước nghiệp như bốn niệm trụ V. Công đức tùy hỷ hồi hướng của Đại Bồ Tát đối với việc phước nghiệp của Phạm Phu, Thanh Văn, độc giác là tối tôn, là tối thắng, là tôn quý, là trao cả, là dịu, là vi dịu, là thường, là vô thường, vô đẳng, vô đẳng đẳng. Vì sao? Vì các Phạm Phu tu phước nghiệp chỉ vì muốn an lạc cho bản thân. Thanh Văn, độc giác tu phước nghiệp chỉ vì muốn điều phục riêng mình, tịch tịnh riêng mình, niết bàn riêng mình. Còn các Đại Bồ Tát có bao nhiêu công đức tùy hỷ hồi hướng, vì muốn tất cả hữu tình được điều phục, tịch tịnh, chứng đắc niết bàn. Khi ấy, cụ Thọ Thiện hiện hỏi Bồ Tát từ Thị. Đại Bồ Tát này đem tâm hồi hướng tùy hỷ khắp mười phương vô lượng, vô số, vô biên thế giới, cứu mỗi một thế giới thì có vô lượng, vô số, vô biên chiêu Phật đã nhập niết bàn. Từ lúc mới phát tâm cho đến chứng quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đệ, như vậy cho đến sau khi nhập vô dư y niết bàn, lần lần đến khi chánh Pháp hoại diệt, trong khoảng thời gian này có bao nhiêu Thiện Căng tương ưng với sáu Pháp Ba La Mật Đa và cùng với Thanh Văn, độc giác, Bồ Tát, tất cả hữu tình. Thiện Căng tương ưng với vô lượng, vô số, vô biên Phật Pháp cộng, hoặc bất cộng, hoặc việc tu ba phước nghiệp bố thí, tri giới của đệ tử Phạm Phu, hoặc căng lạnh vô lậu, địa vị vô học, hữu học của đệ tử Thanh Văn kia, hoặc sự thành tựu giới quẩn, định quẩn, tuệ quẩn, giải thoát quẩn, giải thoát ký kiến quẩn của Như Lai ứng chánh đẳng giác, và vì lợi lạc cho tất cả hữu tình, đại tử, đại bi, đại hỷ, đại xã, vô lượng, vô biên Phật Pháp và chánh Pháp được thuyết của chiêu Phật kia, hoặc dựa vào Pháp kia mà tinh cần tu học, hoặc đắc quả dự lưu, nhất Lai, bất hoàng, à la hán, độc giác bồ đệ, hoặc nhập vào chánh tánh ly xanh của Bồ Tát, hoặc tu đại Bồ Tát hạnh, tất cả thiện căng như vậy và hữu tình khác đối với chư Như Lai ứng chánh đẳng giác, Hàng Thanh Văn, Bồ Tát, các đệ tử, các thiện căng ở đời hiện tại hoặc sau nhất bạn, tập hợp tất cả các thiện căng, hiện tiền tùy hỷ, đã tùy hỷ rồi. Lại tùy hỷ câu hành việc phước nghiệp như thế, đem cho các hữu tình một cách bình đẳng, rồi cùng nhau hồi hướng đến quả vị vô thường chánh đẳng bồ đệ. Nguyện đem căng lành này cùng các hữu tình đồng nhau tiến tới quả vị vô thường chánh đẳng bồ đệ. Khởi sự tùy hỷ hồi hướng như vậy, đối việc phước nghiệp phát khởi khác là tối tôn, là tối thắng, là tôn quý, là cao cả, là dịu, là vi dịu, là thường, là vô thường, vô đẳng, vô đẳng đẳng. Ý ông thế nào? Do việc phát khởi tâm tùy hỷ hồi hướng như vậy, là có việc sở duyên như thế nên nói là Đại Bồ Tát khi chấp tướng không? Bồ Tát từ thì trả lời thiện hiện Đại Bồ Tát khi duyên việc như vậy, phát khởi tâm tùy hỷ hồi hướng, thật không thể gọi Đại Bồ Tát khi chấp tướng do việc sở duyên như thế. Lúc này, Cụ Thọ Thiện hiện bảo Bồ Tát từ thì Nếu không phải do việc sở duyên như thế là chấp tướng, thì sự phát tâm tùy hỷ hồi hướng của Đại Bồ Tát kia là dùng chấp tướng làm phương tiện, để duyên khắp mười phương vô lượng, vô số, vô biên thế giới. Mỗi một thế giới có vô lượng, vô số, vô biên chư Phật đã nhất bang. Từ lúc mới phát tâm cho đến lúc chánh pháp hoại diệt, có bao nhiêu thiện căng và thiện căng của các đệ tử tập hợp tất cả để hiện tiện tùy hỷ hồi hướng quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề. Sự phát khởi tùy hỷ hồi hướng như vậy chẳng phải điên đảo. Đối với vô thường gọi là thường, đối với khổ gọi là vui, đối với vô ngã gọi là ngã, đối với bất tịnh gọi là tình. Đây là suy nghĩ, kiến thức điên đảo. Đối với vô tướng mà chấp lấy tướng đó cũng như vậy. Sở duyên như thế thật vô sở hữu. Tâm tùy hỷ hồi hướng cũng như vậy. Các thiện căng cũng như vậy. Quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề cũng như vậy. Bố thí v, v, sáu pháp ba la mật đa cho đến trí nhất thiết tướng cũng như vậy. Nếu như việc sở duyên thật vô sở hữu, thì tâm tùy hỷ hồi hướng cho đến trí nhất thiết tướng cũng như vậy. Những gì là sở duyên? Những gì là việc? Những gì là tâm tùy hỷ hồi hướng? Cho đến những gì là trí nhất thiết tướng mà Đại Bồ Tát kỳ duyên theo việc như vậy mà khởi tâm tùy hỷ hồi hướng quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề? Khi ấy, Bồ Tát từ thị trả lời cụ thọ thiện hiện. Nếu Đại Bồ Tát học sáu pháp ba la mật đa lâu dài, đã từng cúng dường vô lượng chiêu Phật, gieo trồng thiện căng, phát nhiều đại nguyện lâu dài vì muốn được nhiều bạn tốt hộ trì, khéo học các pháp, tự tướng đều không? Đại Bồ Tát này đối với việc sở duyên và tâm tùy hỷ hồi hướng, các thiện căng, quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề, chiêu Phật thế tôn, và tất cả pháp đều không chấp lấy tướng mà có thể phát khởi tâm tùy hỷ hồi hướng quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề. Khởi tâm tùy hỷ hồi hướng như vậy là dùng không hai, chẳng phải không hai làm phương tiện, không hữu tướng, không vô tướng làm phương tiện, không có sở đắc, không vô sở đắc làm phương tiện, không nhỉn, không tịnh làm phương tiện, không sanh, không diệt làm phương tiện. Đối với việc sở duyên cho đến quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề không chấp lấy tướng. Đã không chấp lấy tướng cho nên không bị điên đảo. Nếu Đại Bồ Tát chưa học sáu pháp Palamuddha lâu dài, chưa từng cúng dường vô lượng chư Phật, chưa phát đại nguyện lâu dài, chưa gieo trồng nhiều thiện căng, chưa được nhiều bạn tốt hộ trị, chưa đối với tất cả thiện pháp học tự tướng không? Đại Bồ Tát này đối với việc sở duyên, tâm tùy hỷ hồi hướng, các thiện căng V, V, quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề, chư Phật Thế Tôn và tất cả phát, chấp lấy tướng kia mà phát tâm tùy hỷ hồi hướng quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề, sự phát tâm tùy hỷ hồi hướng như vậy là còn chấp lấy tướng cho nên bị điên đảo, chẳng phải phát khởi tâm tùy hỷ hồi hướng chân thật. Lại nữa, Đại Đức! Không nên vì các Đại Bồ Tát mới học Đại Thừa đối với điều trên mà tuyên thuyết bác nhã, cho đến bố thí Ba-la-mật-đa và các Phật Pháp khác, tự tướng đều nghĩa không? Vì sao? Vì các Bồ Tát mới học Đại Thừa, đối với Pháp như thế, tuy có chút ít phần tin tưởng, cung kính, yêu thích, nhưng khi tìm tội, nghe rồi đều quên mất, kinh hãi, sợ sệt, nghi ngờ, hoặc sanh nhiều việc hủy bán. Còn nếu Đại Bồ Tát bất thối chuyển, từng cúng dường vô lượng chiêu Phật, phát đại nguyện lâu dài, gieo trồng nhiều thiện căng, được nhiều bạn tốt hộ trì thì nên đối với các điều trên vì họ mà trọng nói, phân biệt, sai thị tất cả bác nhã cho đến bố thí Ba-la-mật-đa và Phật Pháp khác, tự tướng nghĩa đều không? Vì sao? Vì các Đại Bồ Tát bất thối chuyển nếu nghe Pháp này đều thọ trì, trọn đời không quên mất, cũng không kinh hãi, khoảng hốt, nghi ngờ, hủy bán. Đại Đức nên biết, các Đại Bồ Tát phải đem việc phước nghiệp câu hành tùy hỷ, hồi hướng quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đề. Khi đó phải nghĩ như vậy, có thể dùng tâm tùy hỷ hồi hướng để chấm dứt xa lịa, biến đổi sự dụng tâm này. Việc sở duyên này và các thiện căng cũng như tâm chấm dứt, xa lịa, biến đổi. Trong đây, những gì là sự dụng tâm? Là dùng những gì làm việc sở duyên và các thiện căng mà thuyết tùy hỷ hồi hướng quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đề. Tâm này đối với tâm lý không nên có tùy hỷ hồi hướng, dùng tâm không hay, đồng thời phát khởi. Tâm cũng không thể tùy hỷ hồi hướng, tự tánh tâm không. Nếu khi Đại Bồ Tát hành bác nhã Palamarda thầm thâm như thế, thì có thể biết tất cả là bác nhã cho đến bố thí Palamarda đều vô sở hữu. Cho đến trí nhất thiết tướng cũng vô sở hữu. Đại Bồ Tát này biết tất cả Pháp đều vô sở hữu, nhưng lại có thể đem việc phước nghiệp câu hành tùy hỷ, hồi hướng quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đề. Tâm tùy hỷ hồi hướng như thế là không điên đảo, vì dùng vô sở Đắc làm phương tiện nên gọi là tùy hỷ hồi hướng quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đề chân thật.

Listen Next

Other Creators