Details
Nothing to say, yet
Big christmas sale
Premium Access 35% OFF
Nothing to say, yet
Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa Tập 24, Quyển 590, Hội thứ 14, Tinh Tấn B.A.L.A.M.T.Đ. Tôi nghe như vậy. Một thời Đức Bạch gia Phạm cùng với 1.250 vị Đại Bí sô trú tại vườn cấp cô độc, ở Trừng Thệ Đa, tại thành thất La Việt. Bây giờ, cụ Thọ Mãn từ tử Bạch Phật. Bạch Thế Tôn Nếu Đại Bồ Tát muốn chứng quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đề, phải dùng phương tiện gì để an trụ Tinh Tấn Ba La Mật Đa? Phật dạy Mãn từ tử Nếu Đại Bồ Tát muốn chứng quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đề, khi mới phát tâm nên nghĩ, các vật sở hữu của ta, hoặc thân hoặc tâm, trước hết phải vì người khác làm việc lợi ích để tất cả sở nguyện được đầy đủ. Ví như người hầu phải suy nghĩ, y, đứng, ngồi, nằm đều theo ý chủ, không nên tự tại làm theo ý mình. Muốn từ nhà đi đến chợ phố V, V, trước hết phải thưa hỏi chủ, sau đó mới đi. Muốn ăn uống chủ cho mới dùng. Tất cả mọi việc đều theo ý chủ. Chúng Đại Bồ Tát cũng vậy, muốn chứng quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đề, lúc mới phát tâm phải nghĩ như vậy, sở hữu của ta, hoặc thân hoặc tâm đều không nên tự tại mà chuyển, tùy theo sự nghiệp lợi ích của người khác, tất cả đều phải vì họ mà thành tựu đầy đủ. Chúng Đại Bồ Tát như thế là y chỉ vào Tinh Tấn Ba La Mật Đa, không xa liệt Tinh Tấn Ba La Mật Đa, vì hữu tình nên làm việc đáng làm. Các Đại Bồ Tát đối với Tinh Tấn Ba La Mật Đa nên trụ như thế. Vĩ nhiên người quý, nếu có người cởi, nó liền nghĩ, ta không nên làm cho thân thể người cởi lây động, mệt mỏi, khổ nhọc, hoặc hư tổn yên cương. Qua, lại, tới, lui, đi, đứng, nhanh, chậm đều theo ý người cởi để hộ trì người ấy, không nên vì ta mà làm cho người kia phải khởi lên các tội lỗi giận dữ v.v. Như thế chúng Đại Bồ Tát muốn hành Tinh Tấn Ba La Mật Đa, không nên hành động tùy theo ý mình, phải theo ý thích người khác để làm lợi ích, hộ trì người kia, để họ không khởi các cả phiền não ác nghiệt với ta. Người kia đối với Đại Bồ Tát, tùy trước không mang ơn, nhưng các Đại Bồ Tát vì người kia tưởng nhớ báo ơn để thành tựu các sự nghiệp. Đại Bồ Tát như vậy là thành tựu Tinh Tấn Ba La Mật Đa, hộ trì tâm người khác, tùy theo ý của người khác mà làm các việc lợi ích an lạc. Đại Bồ Tát như thế là hộ trì Tinh Tấn Ba La Mật Đa, làm cho các hữu tình được lợi ích an lạc, giống như sự nghiệp của mình, thường không nhàm chán. Đó là chúng Đại Bồ Tát an trụ Tinh Tấn Ba La Mật Đa. Lại nữa, mãng tự tử. Nếu Đại Bồ Tát vì muốn mau chiến đắc chiến nhất thiết trí, làm lợi ích lớn cho các hữu tình, thường nên tinh cần tu học bố thí, tỉnh giới, an nhẫn, Tinh Tấn, tỉnh lự, bát nhã Ba La Mật Đa, tầm không thối chuyển. Đại Bồ Tát này an trụ Tinh Tấn Ba La Mật Đa. Nếu Đại Bồ Tát vì muốn mau chiến đắc chiến nhất thiết trí, làm lợi ích lớn cho các hữu tình, thường nên tinh cần tu học, quan pháp nội không, ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không, thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất chắn không, vô tế không, tán không, vô biến dị không, bản tính không, tự tướng không, cộng tướng không, nhất thiết pháp không, bất xả đắc không, vô tính không, tự tính không, vô tính tự tính không, tầm không thối chuyển. Đại Bồ Tát này an trụ Tinh Tấn Ba La Mật Đa. Nếu Đại Bồ Tát vì muốn mau chiến đắc chiến nhất thiết trí, làm lợi ích lớn cho các hữu tình, thường nên tinh cần tu học, quan các pháp chân như, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly xanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tương nhị, tầm không thối chuyển. Đại Bồ Tát này an trụ Tinh Tấn Ba La Mật Đa. Nếu Đại Bồ Tát vì muốn mau chiến đắc chiến nhất thiết trí, làm lợi ích lớn cho các hữu tình, thường nên tinh cần tu học, quan vô minh duyên hạnh, hạnh duyên thức, thức duyên danh sách, danh sách duyên lục sứ, lục sứ duyên xuất, xuất duyên thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sanh, sanh duyên lão tử, sầu, thang, khổ, ưu, não, tầm không thối chuyển. Đại Bồ Tát này an trụ Tinh Tấn Ba La Mật Đa. Nếu Đại Bồ Tát vì muốn mau chiến đắc chiến nhất thiết trí, làm lợi ích lớn cho các hữu tình, thường nên tinh cần tu học, quan vô minh duyên hạnh, hạnh duyên thức, thức duyên danh sách, danh sách duyên lục sứ, lục sứ duyên xuất, xuất duyên thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sanh, sanh duyên lão tử, sầu, thang, khổ, ưu, não, tầm không thối chuyển. Đại Bồ Tát này an trụ Tinh Tấn Ba La Mật Đa. Nếu Đại Bồ Tát vì muốn mau chiến đắc chiến nhất thiết trí, làm lợi ích lớn cho các hữu tình, thường nên tinh cần tu học, quan thánh đế khổ, hoặc khổ, hoặc vô thường, hoặc không, hoặc vô ngã, quan thánh đế tập, hoặc nhân, hoặc tập, hoặc sanh, hoặc duyên, quan thánh đế diệt, hoặc diệt, hoặc tỉnh, hoặc dịu, hoặc ly, quan thánh đế đạo, hoặc đạo, hoặc như, hoặc hành, hoặc xuất, tầm không thối chuyển. Đại Bồ Tát này an trụ Tinh Tấn Ba La Mật Đa. Nếu Đại Bồ Tát vì muốn mau chiến đắc chiến nhất thiết trí, làm lợi ích lớn cho các hữu tình, thường nên tinh cần tu học bốn tỉnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, tầm không thối chuyển. Đại Bồ Tát này an trụ Tinh Tấn Ba La Mật Đa. Nếu Đại Bồ Tát vì muốn mau chiến đắc chiến nhất thiết trí, làm lợi ích lớn cho các hữu tình, thường nên tinh cần tu học bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm trăng, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo, tầm không thối chuyển. Đại Bồ Tát này an trụ Tinh Tấn Ba La Mật Đa. Nếu Đại Bồ Tát vì muốn mau chiến đắc chiến nhất thiết trí, làm lợi ích lớn cho các hữu tình, thường nên tinh cần tu học pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện, tầm không thối chuyển. Đại Bồ Tát này an trụ Tinh Tấn Ba La Mật Đa. Nếu Đại Bồ Tát vì muốn mau chiến đắc chiến nhất thiết trí, làm lợi ích lớn cho các hữu tình, thường nên tinh cần tu học tám giải thoát, tám thắng sướng, chiến định thứ lớp, mười biến sướng, tầm không thối chuyển. Đại Bồ Tát này an trụ Tinh Tấn Ba La Mật Đa. Nếu Đại Bồ Tát vì muốn mau chiến đắc chiến nhất thiết trí, làm lợi ích lớn cho các hữu tình, thường nên tinh cần tu học tất cả pháp môn Đà La Nhi, tất cả pháp môn Tam Ma Địa, tầm không thối chuyển. Đại Bồ Tát này an trụ Tinh Tấn Ba La Mật Đa. Nếu Đại Bồ Tát vì muốn mau chiến đắc chiến nhất thiết trí, làm lợi ích lớn cho các hữu tình, thường nên tinh cần tu học trí tịnh quán địa, trũng tánh địa, đệ bác địa, cụ kiến địa, bạc địa, ly dục địa, dĩ biện địa, độc giác địa, bồ tát địa, như lai địa, tầm không thối chuyển. Đại Bồ Tát này an trụ Tinh Tấn Ba La Mật Đa. Nếu Đại Bồ Tát vì muốn mau chiến đắc chiến nhất thiết trí, làm lợi ích lớn cho các hữu tình, thường nên tinh cần tu học hoặc thắng giải hành địa, hoặc cực khỉ địa, hoặc ly cấu địa, hoặc phát quan địa, hoặc diệm tuệ địa, hoặc cực năng thắng địa, hoặc khiện tiền địa, hoặc viễn hành địa, hoặc bất động địa, hoặc thiện tuệ địa, hoặc pháp vân địa, hoặc đẳng giác địa, tầm không thối chuyển. Đại Bồ Tát này an trụ Tinh Tấn Ba La Mật Đa. Nếu Đại Bồ Tát vì muốn mau chiến đắc chiến nhất thiết trí, làm lợi ích lớn cho các hữu tình, thường nên tinh cần tu học thanh tịnh năm loại mắt, sáu phép thần thông thù thắng, tầm không thối chuyển. Đại Bồ Tát này an trụ Tinh Tấn Ba La Mật Đa. Nếu Đại Bồ Tát vì muốn mau chiến đắc chiến nhất thiết trí, làm lợi ích lớn cho các hữu tình, thường nên tinh cần tu học mười lực như lai, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xã, mười tám pháp Phật bất cộng V, V, và vô biên Phật Pháp, tầm không thối chuyển. Đại Bồ Tát này an trụ Tinh Tấn Ba La Mật Đa. Lại nữa, mãn từ tử. Nếu Đại Bồ Tát vì muốn làm cho cõi Phật thật trang nhiên thanh tịnh, thì nên ở lâu trong sanh tử, tu học các công đức, tầm không thối chuyển. Đại Bồ Tát này an trụ Tinh Tấn Ba La Mật Đa. Nếu Đại Bồ Tát vì muốn thành thuộc các loại hữu tình, thì nên ở lâu trong sanh tử, tu học các công đức, tầm không thối chuyển. Đại Bồ Tát này an trụ Tinh Tấn Ba La Mật Đa. Nếu Đại Bồ Tát lúc mới phát tâm quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đề, giả sử các loại hữu tình trong ba ngàn đại thiên thế giới đều thành Bồ Tát, hoặc còn ràng buộc một đời, hoặc còn ràng buộc hai đời, hoặc còn ràng buộc ba đời, hoặc còn ràng buộc bốn đời mới được thành Phật, nên nói như vậy, các vị phải tinh cần tu học hành Bồ Tát, để các vị chứng vô thường chánh đẳng Bồ Đề trước, ta sẽ chứng vô thường chánh đẳng Bồ Đề sau. Bây giờ, Bồ Tát theo lời nói kia, bền tinh cần giọng mảnh, tầm không khiếp sợ. Đại Bồ Tát này an trụ Tinh Tấn Ba La Mật Đa. Nếu Đại Bồ Tát hoặc còn ràng buộc một đời, hoặc còn ràng buộc hai đời, hoặc còn ràng buộc ba đời, hoặc còn ràng buộc bốn đời mới được thành Phật, giả sử các loại hữu tình ở ba ngàn đại thiên thế giới mới phát tâm quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đề, nói như vậy, Ngài hãy đợi chúng tôi chứng quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đề trước, rồi Ngài chứng quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đề sau. Bây giờ, Bồ Tát theo lời nói kia, ở lâu trong sanh tử, tầm không thối chuyển. Đại Bồ Tát này an trụ Tinh Tấn Ba La Mật Đa. Nếu Đại Bồ Tát thấy người hạnh phúc đến xin những vật cần dùng, thì mặt không nên nhăn nhó, mắt không hiện tướng sân, chỉ nghĩ như vậy, hữu tình như thế là thuận theo sự cầu trí nhất thiết ký của ta, mau chống tạo phương tiện cho người cầu sinh. Đại Bồ Tát này an trụ Tinh Tấn Ba La Mật Đa. Nếu Đại Bồ Tát vì muốn tất cả hữu tình được an lạc, nên hoặc trải qua một kiếp, hoặc hơn một kiếp ở trong địa ngục lớn, chịu các khổ dữ dội, nhưng thân không động chuyển, tầm không thối lui. Đại Bồ Tát này an trụ Tinh Tấn Ba La Mật Đa. Nếu Đại Bồ Tát, giả sử số lượng ngày đêm đồng như đại kiếp, tích chứa ngày đêm này lại thành đại kiếp, trải qua nhiều thời gian như hàng hà sa số đại kiếp, ở trong đại địa ngục, chịu nhiều khổ não dữ dội, do chịu nhiều khổ não này nên muốn giúp cho một hữu tình được ra khỏi địa ngục, sanh ở cõi lành. Bây giờ, Bồ Tát hoan hỷ lãnh chịu. Đại Bồ Tát này an trụ Tinh Tấn Ba La Mật Đa. Nếu Đại Bồ Tát nào nghe nói những việc này mà bộc lộ sự vui mừng, thề vì hữu tình lãnh chịu tất cả, tầm không thối chuyển, nên biết đây gọi là Bồ Tát an trụ Tinh Tấn Ba La Mật Đa. Nếu Đại Bồ Tát nào nghe những việc như thế mà tầm khiết nhược, không hoan hỷ, lòng không muốn lãnh thọ, nên biết đây gọi là Bồ Tát giải đải. Nếu Đại Bồ Tát nào nghe các việc lành, tầm liên tục ưu thích thọ hành, nên biết đây gọi là Bồ Tát Tinh Tấn, an trụ Tinh Tấn Ba La Mật Đa. Nếu Đại Bồ Tát nào nghe các việc lành, không buộc niềm liên tục thọ hành, thì nên biết đây là Bồ Tát giải đải. Lại nữa, mãng từ tử. Giả sử Đại Bồ Tát đất ở châu thiện bộ này mà quét từ một chỗ rồi đến nơi khác, quét sắp nơi rồi trở về chỗ cũ, sợi ý nghĩ ta lì chỗ này đã lâu, nên biết đây gọi là Bồ Tát giải đải. Nếu Đại Bồ Tát làm việc này rồi, sợi ý nghĩ ta đến chỗ này thật mau, nên biết đây gọi là Bồ Tát Tinh Tấn, an trụ Tinh Tấn Ba La Mật Đa. Nếu Đại Bồ Tát xây cất, sự chữa bão tháp trải qua một ngày, rồi nghỉ, ngày hôm nay sao lại dài thế? Nên biết đây gọi là Bồ Tát giải đải. Nếu Đại Bồ Tát làm việc này rồi, khởi nghỉ, ngày hôm nay sao lại ngắn vậy? Nên biết đây gọi là Bồ Tát Tinh Tấn, an trụ Tinh Tấn Ba La Mật Đa. Nếu Đại Bồ Tát coi sự nghiệp đã làm trong nửa năm, khởi tưởng lâu dài, nên biết đây gọi là Bồ Tát giải đải. Nếu Đại Bồ Tát coi sự nghiệp đã làm trong nửa năm, khởi tưởng lâu dài, nên biết đây gọi là Bồ Tát giải đải. Nếu Đại Bồ Tát coi sự nghiệp đã làm trong nửa năm, khởi tưởng lâu dài, nên biết đây gọi là Bồ Tát giải đải. Nếu Đại Bồ Tát coi sự nghiệp đã làm trong nửa năm, khởi tưởng lâu dài, nên biết đây gọi là Bồ Tát giải đải. Nếu Đại Bồ Tát coi sự nghiệp đã làm trong nửa năm như sự nghiệp đã làm trong một ngày, nên biết đây gọi là Bồ Tát Tinh Tấn, an trụ Tinh Tấn Ba La Mật Đa. Nếu Đại Bồ Tát coi sự nghiệp đã làm trong một năm, khởi tưởng lâu dài, nên biết đây gọi là Bồ Tát giải đải. Nếu Đại Bồ Tát coi sự nghiệp đã làm trong một năm như sự nghiệp đã làm trong một ngày, nên biết đây gọi là Bồ Tát Tinh Tấn, an trụ Tinh Tấn Ba La Mật Đa. Nếu Đại Bồ Tát coi sự nghiệp đã làm trong nửa kiếp, khởi tưởng lâu dài, nên biết đây gọi là Bồ Tát giải đải. Nếu Đại Bồ Tát coi sự nghiệp đã làm trong nửa kiếp giống như sự nghiệp đã làm trong một ngày, nên biết đây gọi là Bồ Tát Tinh Tấn, an trụ Tinh Tấn Ba La Mật Đa. Nếu Đại Bồ Tát coi sự nghiệp đã làm trong một kiếp, khởi tưởng lâu dài, nên biết đây gọi là Bồ Tát giải đải. Nếu Đại Bồ Tát coi sự nghiệp đã làm trong một kiếp giống như sự nghiệp đã làm trong một ngày, nên biết đây gọi là Bồ Tát Tinh Tấn, an trụ Tinh Tấn Ba La Mật Đa. Lại nữa, Mãng Từ Tử Các Đại Bồ Tát tu hành Bồ Đề không nghĩ kiếp số nhiều ít, nghĩa là nghĩ ta phải trải qua bao nhiêu số kiếp mới chứng quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đề. Nếu Đại Bồ Tát suy nghĩ kiếp số mà phân biệt giới hạn, rồi tinh tấn dõng mảnh tu hành Bồ Đề cầu chứng quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đề, nên biết đây gọi là Bồ Tát giải đải. Nếu Đại Bồ Tát suy nghĩ như vậy, dù trải qua vô lượng, vô biên đại kiếp, tinh tấn dõng mảnh tu hành Bồ Đề, mới chứng quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đề, ta nhất định không sanh tâm thối lui, xiên năng cầu quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đề. Nên biết đây gọi là Bồ Tát tinh tấn, an trụ tinh tấn Ba-la-mật-đa, tu hành tinh tấn Ba-la-mật-đa khiến cho màu trống viên mãn, xa lìa xanh tử, màu chứng đắc trí nhất thiết trí, làm lợi ích lớn cho các hữu tình. Nếu Đại Bồ Tát suy nghĩ kiếp số mà giới hạn, phân biệt, tuy thất dõng mảnh thường xuyên năng tu học bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tỉnh lự, bát nhã Ba-la-mật-đa, nhưng cũng gọi là Bồ Tát giải đải. Nếu Đại Bồ Tát suy nghĩ như vậy, dù trải qua vô lượng, vô biên đại kiếp, nỗ lực dõng mảnh thường xuyên tu học bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tỉnh lự, bát nhã Ba-la-mật-đa mới được viên mãn, mới chứng quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đề, ta nhất định không sanh tâm thối lui. Nên biết đây gọi là Bồ Tát tinh tấn, an trụ tinh tấn Ba-la-mật-đa, màu chứng đắc trí nhất thiết trí. Nếu Đại Bồ Tát suy nghĩ kiếp số mà giới hạn, phân biệt, tuy trất dõng mảnh thường xuyên năng tu học trí pháp nội không, ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không, thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cánh không, vô tế không, tán không, vô biến dị không, bản tính không, tự tướng không, cộng tướng không, nhất thiết pháp không, bất xả đắc không, vô tính không, tự tính không, vô tính tự tính không, nhưng cũng gọi là Bồ Tát giải đải. Nếu Đại Bồ Tát suy nghĩ như vậy, dù trải qua vô lượng, vô biên đại kiếp, nỗ lực dõng mảnh thường xuyên tu học trí pháp nội không, cho đến pháp vô tính tự tính không mới được viên mãng, mới chứng quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đệ, ta nhất định không sanh tâm thối chuyển. Nên biết đây gọi là Bồ Tát tinh tấn, an trụ tinh tấn Ba-la-mật-đa, màu chứng đắc trí nhất thiết trí. Nếu Đại Bồ Tát suy nghĩ kiếp số mà có giới hạn, phân biệt, tùy rất dõng mảnh thường xuyên năng tu học trí các pháp chân như pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly xanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tương nghị, nhưng cũng gọi là Bồ Tát giải đải. Nếu Đại Bồ Tát suy nghĩ như vậy, dù trải qua vô lượng, vô biên đại kiếp, nỗ lực dõng mảnh thường xuyên tu học trí các pháp chân như cho đến cảnh giới bất tương nghị, mới được viên mãn, mới chứng quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đệ, ta nhất định không sanh tâm thối chuyển. Nên biết đây gọi là Bồ Tát tinh tấn, an trụ tinh tấn Ba-la-mật-đa, màu chứng đắc trí nhất thiết trí. Nếu Đại Bồ Tát suy nghĩ kiếp số mà có giới hạn, phân biệt, tùy trất dõng mảnh thường xuyên năng tu học trí vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyên danh sách, danh sách duyên luật sứ, luật sứ duyên phúc, phúc duyên thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sanh, sanh duyên lão tử, nhưng cũng gọi là Bồ Tát giải đải. Nếu Đại Bồ Tát suy nghĩ như vậy, dù trải qua vô lượng, vô biên đại kiếp, nỗ lực dõng mảnh thường xuyên tu học trí vô minh duyên hành, cho đến sanh duyên lão tử, mới được viên mãn, mới chứng quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đề, ta nhất định không sanh tâm thối chuyển. Nên biết đây gọi là Bồ Tát tinh tấn, an trụ tinh tấn Ba-la-mật-đa, màu chứng đắc trí nhất thiết trí. Nếu Đại Bồ Tát suy nghĩ kiếp số mà có giới hạn, phân biệt, tuy rất giọng mảnh thường xuyên năng tu học trí vô minh duyên hành duyên hành duyên thức duyên, thức duyên duyên danh sách duyên, danh sách duyên duyên lục xứ duyên, lục xứ duyên duyên xúc duyên, xúc duyên duyên thọ duyên, thọ duyên duyên ái duyên, ái duyên duyên thủ duyên, thủ duyên duyên hữu duyên, hữu duyên duyên sanh duyên, sanh duyên duyên lão tử duyên, nhưng cũng gọi là Bồ Tát giải đải. Nếu Đại Bồ Tát suy nghĩ như vậy, dù trải qua vô lượng, vô biên đại kiếp, nỗ lực giọng mảnh thường xuyên tu học trí vô minh duyên hành duyên, cho đến sanh duyên nên lão tử duyên, mới được viên mãn, mới chứng quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đề, ta nhất định không sanh tâm thối chuyển. Nên biết đây gọi là Bồ Tát tinh tấn, an trụ tinh tấn ba-la-mật-đa, màu chứng đắc trí nhất thiết trí. Nếu Đại Bồ Tát suy nghĩ kiếp số mà có giới hạn, phân biệt, tuy rất giọng mảnh thường xuyên năng tu học trí thánh đế khổ, hoặc khổ, hoặc vô thường, hoặc không, hoặc vô ngã, trí thánh đế tập, hoặc nhân, hoặc tập, hoặc sanh, hoặc duyên, trí thánh đế diệt, hoặc diệt, hoặc tỉnh, hoặc dịu, hoặc ly, trí thánh đế đạo, hoặc đạo, hoặc nhân, hoặc hành, hoặc xuất, nhưng cũng gọi là Bồ Tát giải đải. Nếu Đại Bồ Tát suy nghĩ như vậy, dù trải qua vô lượng, vô biên đại kiếp, nỗ lực giọng mảnh thường xuyên tu học trí thánh đế khổ, hoặc khổ, hoặc vô thường, hoặc không, hoặc vô ngã, cho đến trí thánh đế đạo hoặc đạo, hoặc nhân, hoặc hành, hoặc xuất mới được viên mãn, mới chứng quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đệ, ta nhất định không sanh tâm thối chuyển. Nên biết đây gọi là Bồ Tát tinh tấn, an trụ tinh tấn ba-la-mật-đa, màu chứng đắc trí nhất thiết trí. Nếu Đại Bồ Tát suy nghĩ kiếp số mà có giới hạn, phân biệt, tuy trất giọng mảnh thường xuyên năng tu học bốn tỉnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, nhưng cũng gọi là Bồ Tát giải đải. Nếu Đại Bồ Tát suy nghĩ như vậy, dù trải qua vô lượng, vô biên đại kiếp, nỗ lực giọng mảnh thường xuyên tu học bốn tỉnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc mới được viên mãn, mới chứng quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đệ, ta nhất định không sanh tâm thối chuyển. Nên biết đây gọi là Bồ Tát Tinh Tấn, An Trụ Tinh Tấn Ba La Mật Đa, màu chứng đắc trí nhất thiết trí. Nếu Đại Bồ Tát suy nghĩ kiếp số mà có giới hạn, phân biệt, tuy trất giọng mảnh thường xuyên năng tu học bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căng, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo, nhưng cũng gọi là Bồ Tát giải đải. Nếu Đại Bồ Tát suy nghĩ như vậy, dù trải qua vô lượng, vô biên đại kiếp, nỗ lực giọng mảnh thường xuyên tu học bốn niệm trụ, cho đến tám chi thánh đạo mới được viên mãn, mới chứng quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đệ, ta nhất định không sanh tâm thối chuyển. Nên biết đây gọi là Bồ Tát Tinh Tấn, An Trụ Tinh Tấn Ba La Mật Đa, màu chứng đắc trí nhất thiết trí. Nếu Đại Bồ Tát suy nghĩ như vậy, dù trải qua vô lượng, vô biên đại kiếp, nỗ lực giọng mảnh thường xuyên tu học ba pháp môn giải thoát mới được viên mãn, mới chứng quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đệ, ta nhất định không sanh tâm thối chuyển. Nên biết đây gọi là Bồ Tát Tinh Tấn, An Trụ Tinh Tấn Ba La Mật Đa, màu chứng đắc trí nhất thiết trí. Nếu Đại Bồ Tát suy nghĩ kiếp số mà có giới hạn, phân biệt, tuy rất giọng mảnh thường xuyên năng tu học tám giải thoát, tám thắng xứ, chính định thứ lớp, mười biến xứ, nhưng cũng gọi là Bồ Tát giải đải. Nếu Đại Bồ Tát suy nghĩ như vậy, dù trải qua vô lượng, vô biên đại kiếp, nỗ lực giọng mảnh thường xuyên tu học tám giải thoát, cho đến mười biến xứ mới được viên mãn, mới chứng quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đệ, ta nhất định không sanh tâm thối chuyển. Nên biết đây gọi là Bồ Tát Tinh Tấn, An Trụ Tinh Tấn Ba La Mật Đa, màu chứng đắc trí nhất thiết trí. Nếu Đại Bồ Tát suy nghĩ kiếp số mà có giới hạn, phân biệt, tuy rất giọng mảnh thường xuyên năng tu học Pháp Môn Đà La Ni, Pháp Môn Tam Ma Địa, nhưng cũng gọi là Bồ Tát giải đải. Nếu Đại Bồ Tát suy nghĩ như vậy, dù trải qua vô lượng, vô biên đại kiếp, nỗ lực giọng mảnh thường xuyên tu học Pháp Môn Đà La Ni, Pháp Môn Tam Ma Địa mới được viên mãn, mới chứng quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đệ, ta nhất định không sanh tâm thối chuyển. Nên biết đây gọi là Bồ Tát Tinh Tấn, An Trụ Tinh Tấn Ba La Mật Đa, màu chứng đắc trí nhất thiết trí. Nếu Đại Bồ Tát suy nghĩ kiếp số mà có giới hạn, phân biệt, tuy rất giọng mảnh thường xuyên năng tu học các Bồ Tát Địa và các Trí Địa, nhưng cũng gọi là Bồ Tát giải đải. Nếu Đại Bồ Tát suy nghĩ như vậy, dù trải qua vô lượng, vô biên đại kiếp, nỗ lực giọng mảnh thường xuyên tu học các Bồ Tát Địa và các Trí Địa mới được viên mãn, mới chứng quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đệ, ta nhất định không sanh tâm thối chuyển. Nên biết đây gọi là Bồ Tát Tinh Tấn, An Trụ Tinh Tấn Ba La Mật Đa, màu chứng đắc trí nhất thiết trí. Nếu Đại Bồ Tát suy nghĩ kiếp số mà có giới hạn, phân biệt, tuy rất giọng mảnh thường xuyên năng tu học năm loại mắt thanh tịnh, sáu phép thần thông thù thắng, nhưng cũng gọi là Bồ Tát giải đải. Nếu Đại Bồ Tát suy nghĩ như vậy, dù trải qua vô lượng, vô biên đại kiếp, nỗ lực giọng mảnh thường xuyên tu học năm loại mắt thanh tịnh, sáu phép thần thông thù thắng, mới được viên mãn, mới chứng quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đệ, ta nhất định không sanh tâm thối chuyển. Nên biết đây gọi là Bồ Tát tinh tấn, an trụ tinh tấn ba la mật đa, màu chính đắc trí nhất thiết trí. Nếu Đại Bồ Tát suy nghĩ kiếp số mà có giới hạn, phân biệt, tuy rất giọng mảnh thường xuyên năng tu học mười lực như lai, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, nhưng cũng gọi là Bồ Tát giải đải. Nếu Đại Bồ Tát suy nghĩ như vậy, dù trải qua vô lường, vô biên đại kiết, nỗ lực giọng mảnh thường xuyên tu học mười lực như lai, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mới được viên mãn, mới chứng quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đệ, ta nhất định không sanh tâm thối chuyển. Nên biết đây gọi là Bồ Tát tinh tấn, an trụ tinh tấn ba la mật đa, màu chính đắc trí nhất thiết trí. Nếu Đại Bồ Tát suy nghĩ kiếp số mà có giới hạn, phân biệt, tuy rất giọng mảnh thường xuyên năng tu học đại tử, đại bi, đại hỷ, đại xã, mười tám Pháp Phật bất cộng, nhưng cũng gọi là Bồ Tát giải đải. Nếu Đại Bồ Tát suy nghĩ như vậy, dù trải qua vô lượng, vô biên đại kiếp, nỗ lực giọng mảnh thường xuyên tu học đại tử, đại bi, đại hỷ, đại xã, mười tám Pháp Phật bất cộng, mới được viên mãn, mới chứng quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đệ, ta nhất định không sanh tâm thối chuyển. Nên biết đây gọi là Bồ Tát tinh tấn, an trụ tinh tấn ba la mật đa, màu chính đắc trí nhất thiết trí. Nếu Đại Bồ Tát suy nghĩ kiếp số mà có giới hạn, phân biệt, tuy rất giọng mảnh thường xuyên năng tu học Pháp không quên mất, tánh luôn luôn xã, nhưng cũng gọi là Bồ Tát giải đải. Nếu Đại Bồ Tát suy nghĩ như vậy, dù trải qua vô lượng, vô biên đại kiếp, nỗ lực giọng mảnh thường xuyên tu học Pháp không quên mất, tánh luôn luôn xã, mới được viên mãn, mới chứng quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đệ, ta nhất định không sanh tâm thối chuyển. Nên biết đây gọi là Bồ Tát tinh tấn, an trụ tinh tấn ba la mật đa, màu chính đắc trí nhất thiết trí. Nếu Đại Bồ Tát suy nghĩ kiếp số mà có giới hạn, phân biệt, tuy rất giọng mảnh thường xuyên năng tu học trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, nhưng cũng gọi là Bồ Tát giải đải. Nếu Đại Bồ Tát suy nghĩ như vậy, dù trải qua vô lượng, vô biên đại kiếp, nỗ lực giọng mảnh thường xuyên tu học trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, mới được viên mãn, mới chứng quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đệ, ta nhất định không sanh tâm thối chuyển. Nên biết đây gọi là Bồ Tát tinh tấn, an trụ tinh tấn ba la mật đa, màu chính đắc trí nhất thiết trí. Nếu Đại Bồ Tát suy nghĩ kiếp số mà có giới hạn, phân biệt, tuy rất giọng mảnh thường xuyên năng tu học tất cả hành Đại Bồ Tát, nhưng cũng gọi là Bồ Tát giải đải. Nếu Đại Bồ Tát suy nghĩ như vậy, dù trải qua vô lượng, vô biên đại kiếp, nỗ lực giọng mảnh thường xuyên tu học tất cả hành Đại Bồ Tát, mới được viên mãn, mới chứng quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đệ, ta nhất định không sanh tâm thối chuyển. Nên biết đây gọi là Bồ Tát tinh tấn, an trụ tinh tấn ba la mật đa, màu chính đắc trí nhất thiết trí. Lại nữa, mãn từ tử. Nếu có lời khuyến thỉnh Đại Bồ Tát, Ngài nên vì tôi trong một ngày phá vỡ núi chúa dịu cao. Nếu hỏi lại, lượng núi chúa dịu cao thế nào mà ông bắt tôi đập phá làm bao nhiêu phần? Nên biết đây gọi là Bồ Tát giải đải. Nếu suy nghĩ như vậy, dù núi chúa dịu cao lớn hay nhỏ, trong một ngày tôi sẽ vì ông mà đập phá ra như hạt cải, hoặc như vi trần. Tuy trải qua nhiều thời gian mới đập phá được, nhưng ý vị kia cho rằng như chỉ trong chốc lát. Nên biết đây gọi là Bồ Tát tinh tấn. Nếu Đại Bồ Tát suy nghĩ, giả sử hàng hà sa số đại kiếp làm thành một ngày đêm, kích lũy ngày đêm lại thành đại kiếp, dù trải qua vô lượng đại kiếp như vậy tu hành Bồ Tát mới chứng quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề, thì trong thời gian đó tâm tôi cũng không thối chuyển, húng chi không có việc này mà chẳng xiên năng cầu. Nên biết đây gọi là Bồ Tát tinh tấn. Nếu Bồ Tát khi nghe thuyết tướng tinh tấn như thế, bột lộ sự vui mừng, tầm không khiếp sợ, nên biết đây gọi là Bồ Tát tinh tấn. Nếu Bồ Tát khi nghe thuyết tướng tinh tấn như thế, tầm kìa thối lui, hoang mang, sanh lòng sợ hãi, nên biết đây gọi là Bồ Tát giải đải, không thể mau đắc trí nhất thiết ký. Nếu Đại Bồ Tát nghe thuyết tinh tấn Ba-la-mật-đa, suy nghĩ như vậy, biết khi nào mới thành tựu công đức thù thắng khó chứng như thế. Nên biết đây gọi là Bồ Tát giải đải. Nếu Đại Bồ Tát nghe thuyết tinh tấn Ba-la-mật-đa, suy nghĩ như vậy, công đức như thế ta đều có đủ, ta phải nhất định tu tập để mau tiến đến bờ bên kia. Nên biết đây gọi là Bồ Tát tinh tấn. Nếu có người đến xin tay, chân, đầu của Đại Bồ Tát, Bồ Tát liền nghĩ, nếu ta cho người kia thì sẽ không tay, không chân, không đầu. Nên biết đây gọi là Bồ Tát giải đải. Nếu có người đến xin tay, chân, đầu của Đại Bồ Tát, Bồ Tát liền suy nghĩ, ta đem cho người kia, sẽ được tay, chân, đầu vô thượng vi diệu của trời, người, a tố lạc v, v. Nên biết đây gọi là Bồ Tát tinh tấn. Nếu có người đến xin mắt, tai của Đại Bồ Tát, Bồ Tát liền nghĩ, ta đem cho người kia, thì không còn mắt, tai. Nên biết đây gọi là Bồ Tát giải đải. Nếu có người đến xin mắt, tai của Đại Bồ Tát, Bồ Tát liền nghĩ, ta bổ thí cho người kia thì sẽ được mắt, tai vô thượng giống như tháng trí của trời, người, a tố lạc v, v. Nên biết đây gọi là Bồ Tát tinh tấn, xa liền nhị thừa, thân cận trí nhất thiết trí. Nếu có người đến xin lóng, đốt từng phần nơi thân của Đại Bồ Tát, Bồ Tát liền nghĩ, nếu ta đem cho người kia thì bị thiếu các lóng đốt nơi thân. Nên biết đây gọi là Bồ Tát giải đải. Nếu có người đến xin lóng, đốt từng phần nơi thân của Đại Bồ Tát, Bồ Tát liền nghĩ, ta đem cho người ấy, sẽ được các lóng đốt thân phần Phật Pháp vô thường, Pháp nhất thiết trí của trời, người, a tố lạc v, v. Nên biết đây gọi là Bồ Tát tinh tấn. Nếu có người đến xin nhiều thứ của Đại Bồ Tát, Bồ Tát liền nghĩ, người này xin rất nhiều, như vậy thì làm sao thực hiện đầy đủ ý nguyện đó. Nên biết đây gọi là Bồ Tát giải đải. Nếu có người đến xin nhiều thứ của Đại Bồ Tát, Bồ Tát liền nghĩ, xin như thế chưa là nhiều. Giả sử các loài hữu tình ở hàng hà xa số thế giới, trong một ngày đều đến xin ta các thứ cần dùng, ta nên dùng phương tiện tiền kiếm tiền tại, châu báo khắp nơi để cho họ đầy đủ, húng chi chỉ bấy nhiêu đó mà không cho. Nên biết đây gọi là Bồ Tát tinh tấn. Vì sao? Vì nếu các Đại Bồ Tát muốn dẫn dắt hiện lộ vô lượng Phật Pháp, Pháp nhất thiết trí, chẳng phải dùng tinh tấn có hạn lượng bố thí mà có thể dẫn dắt hiện lộ vô lượng Phật Pháp, Pháp nhất thiết trí, cốt yếu là phải mặc áo giác, đội mũ tinh tấn bố thí vô lượng đồng lớn, mới có thể dẫn dắt hiện lộ vô lượng Phật Pháp, Pháp nhất thiết trí. Ví như có người muốn qua biển lớn, điều cốt yếu trước hết là phải chuẩn bị đầy đủ các thứ tư lương nhiều do tuần, hơn trăm do tuần, hơn ngàn do tuần, hơn trăm ngàn do tuần, sau đó mới đi. Chúng Đại Bồ Tát cũng vậy, muốn chứng quả vị vô thượng chánh đẳng Bồ Đệ, cần phải trải qua vô lượng trăm ngàn muôn ức kiếp, tu tập tư lương, sau đó mới chứng. Nếu Đại Bồ Tát nào suy nghĩ, ta có hạn lượng, có bến bờ đại kiếp cầu chứng quả vị vô thượng chánh đẳng Bồ Đệ. Nên biết đây gọi là Bồ Tát giải đải. Nếu Đại Bồ Tát nào suy nghĩ, ta không giới hạn số lượng, không giới hạn bến bờ đại kiếp cầu chứng quả vị vô thượng chánh đẳng Bồ Đệ. Nên biết đây gọi là Bồ Tát tinh tấn. Bây giờ, mãn từ tử Bạch Phật, Bạch Thế Tôn, các Đại Bồ Tát tinh tấn như thế đâu gọi là khó. Thế Tôn vậy, Thầy cho rằng chúng Đại Bồ Tát tinh tấn như thế chẳng phải là khó sao? Mãn từ tử Bạch Phật, Bạch Thế Tôn, các Đại Bồ Tát tinh tấn như thế con cho rằng chẳng phải khó. Vì sao? Vì Phật thuyết các Pháp đều như việc huyển, cảm thọ vui, cảm thọ khổ và các điều dẫn đến sự cảm thọ khác đều như huyển, Bồ Tát đã thông đạt thực tánh các Pháp như thế thì tinh tấn khó gì? Thế Tôn bảo mãn từ tử. Nên biết, chúng Đại Bồ Tát tuy biết các Pháp đều là việc như huyển, nhưng vẫn phát khởi tinh tấn thân tâm, an trụ tinh tấn Ba-la-mật-đa, cầu Đại Bồ Đệ thường không ngưng nghĩ. Do đó, tinh tấn như vậy rất là khó đối với chúng Đại Bồ Tát. Mãn từ tử liền Bạch Phật, Bạch Thế Tôn, thật kỳ lạ, Bạch Thiện Thệ, thật hy hữu, khéo thuyết tinh tấn rất khó của chúng Đại Bồ Tát. Nên biết chúng Đại Bồ Tát có thể làm những việc khó. Tuy biết các Pháp hoàn toàn vô sở hữu nhưng vẫn cầu quả vị vô thường chánh Đẳng Bồ Đệ, vì muốn thuyết cho vô biên các loài hữu tình, chấm dứt chánh Pháp vô trí. Nhưng các Pháp vô trí thật vô sở hữu, cũng không thật, chắc vô trí là vì ngã và ngã sở, cũng không có hữu tình nghĩ như vậy, đây là ngã và ngã sở chân thật. Như vậy, vô trí là do nhân duyên hòa hợp cho nên sanh mà thật không sanh, duyên xa lị cho nên diệt mà thật không diệt. Đại Bồ Tát tuy biết như thế nhưng tầm không thối chuyển, Đại Bồ Tát này an trụ tinh tấn Ba-la-mật-đa. Nên biết đây gọi là Bồ Tát tinh tấn. Nếu Đại Bồ Tát nghĩ như vậy, các Pháp đều không, bây giờ ta phải làm sao phát khởi tinh tấn Ba-la-mật-đa. Nên biết đây gọi là Bồ Tát giải đải. Nếu Đại Bồ Tát nghĩ như vậy, vì tất cả Pháp hoàn toàn không, cho nên ta cầu quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đề, hiểu rõ các Pháp là không, thuyết cho hữu tình khiến cho họ thoát các khổ sanh tử trong năm đường. Nên biết đây gọi là Bồ Tát tinh tấn. Nếu Đại Bồ Tát nghĩ như vậy, sanh tử không ngằng mé, ta đâu có thể làm cho họ đều được diệt độ. Nên biết đây gọi là Bồ Tát giải đải. Nếu Đại Bồ Tát nghĩ như vậy, sanh tử vô thủy nhưng có chấm dứt, sao ta lại không làm cho họ diệt độ. Giả sử tinh tấn cầu Đại Bồ Đề dù từ vô thủy đến nay đã trải qua nhiều kiếp số, sau đó mới chứng, ta cũng cầu huống chi không trải qua nhiều kiếp số. Lại nghĩ, các Bồ Tát ưu thích tu tập tác ý tương ứng với trí nhất thiết trí, nhiều lúc phát tâm thời gian trôi qua thắm thoát một ngày, nửa tháng, một tháng, một năm, hai năm v.v. mà vẫn không hay không biết. Nếu các Bồ Tát ưu thích tu tập bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự, bát nhã ba la mật đa, làm cho tâm thanh tịnh hoàn toàn chẳng có suy nghĩ. Hiểu rõ bao nhiêu ngày đêm, nửa tháng, một tháng, một năm, hai năm v.v. đã qua. Vì vậy, việc cầu Bồ Đề rất dễ đắc, không nên sợ hãi thời gian dài mà càng tinh tấn. Nên biết đây gọi là Bồ Tát tinh tấn. Ví như trưởng giả cầu nhiều cụ cãi, ngày đêm xiên năng suy nghĩ tìm phương tiện, thường nghĩ, phải cần thời gian bao lâu, ta mới được nhiều cụ cãi cho thỏa mãn sở nguyện. Do đó không rảnh để mong cầu việc uống ăn. Đại Bồ Tát cũng vậy, muốn cầu sáu pháp ba la mật đa để tâm được thanh tịnh, nên tinh cần tu tập tác ý tương tương với trí nhất thiết trí, như vừa mới phát tâm đã qua ngày đêm, nửa tháng, một tháng, một năm, hai năm v.v., thường suy nghĩ, chừng nào ta sẽ được vật báo trí nhất thiết lợi ích cho hữu tình. Khi ấy, mãn từ tử liền bạch Phật. Bạch Thế Tôn Các Bồ Tát mặc áo giáp Đại Tinh tấn như tinh cần cầu báo công đức vô thường của Phật, làm lợi ích hữu tình. Đúng thật như Thế Tôn thường thuyết, tất cả Bồ Tát có thể làm những việc khó làm. Phật bảo mãn từ tử Ta xem tất cả thế gian, trời, người v.v., không đầy đủ công đức khiến có như các Đại Bồ Tát, ngoại trừ như lại ứng chánh đẳng giác. Khi ấy, mãn từ tử bèn trời khỏi tòa đứng dậy, chệt y che vai bên trái, gối phải quỳ chấm đất, chấp tay cung kính, bạch Phật. Bạch Thế Tôn Các loài hữu tình ở đông, tây, nam, bắc, bốn góc, trên, dưới, vô biên thế giới trụ Bồ Tát thừa. Ai chưa phát tâm vô thường Bồ Đề Nguyện mau chóng phát tâm. Ai đã phát tâm vô thường Bồ Đề Nguyện cho vĩnh viễn không thối chuyển. Nếu ai đối với quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đề không thối chuyển, thì nguyện cho mau viên mãn trí nhất thiết trí. Phật hỏi mãn từ tử. Thầy quán nghĩa nào mà nguyện các Bồ Tát mau được viên mãn trí nhất thiết trí? Mãn từ tử bạch Phật. Bạch Thế Tôn Nếu không có Bồ Tát, thì không có chiêu Phật xuất hiện thế gian. Nếu không có chiêu Phật xuất hiện thế gian, thì không có chúng Bồ Tát và Thanh Văn. Cần có Bồ Tát tu hành Bồ Tát mới có chiêu Phật xuất hiện thế gian. Vì có chiêu Phật xuất hiện thế gian mới có chúng Bồ Tát và Thanh Văn. Vì như cây lớn do có gốc thân nên có nhánh lá. Do có nhánh lá nên có hoa quả. Do có hoa quả nên lại sanh cây lớn. Như vậy, thế gian do có Bồ Tát nên có chiêu Phật xuất hiện thế gian. Do có chiêu Phật xuất hiện thế gian nên có chúng Bồ Tát và Thanh Văn. Do có Bồ Tát tu hành Bồ Tát, lại có như lai ứng chánh đẳng giác xuất hiện thế gian làm lợi ích lớn. Phật khen mãn từ tử. Lành thay. Lành thay. Đúng như lời Thầy nói. Khi ấy, Phật bảo Ananda. Thầy nên thọ trị sự tu tinh tấn Balamuddha như áo giáp tinh tấn mà các chúng Bồ Tát đã mặc, đừng để quên mất. Ananda bạch Phật. Bạch Thế Tôn. Con đã thọ trị sự tu tinh tấn Balamuddha như áo giáp tinh tấn của các chúng Bồ Tát đã mặc, chắc chắn không bao giờ quên mất. Khi Đức Bạch gia Phạm thuyết kinh này, cụ thọ mãn từ tử, cụ thọ xá lợi tử, cụ thọ Ananda và các chúng Thanh Văn, Bồ Tát cùng tất cả trời, rồng, dược soa, a tố lạc v.v. nghe Phật thuyết đều rất vui mừng, tính thọ phụn hành. Phụ đề được thực hiện bởi cộng đồng Amara.org