Details
Nothing to say, yet
Nothing to say, yet
Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa Tập 15, từ quyển 351 đến quyển 375 Hán Dịch, Tạm Tạng Pháp Sư Huyền Trang Việt Dịch, Hòa Thượng Thích Trí Nhiêm Khảo Dịch, Hòa Thượng Thích Quảng Độ Quyển 351 LXI Phẩm Đa Vấn Bất Nghị 01 Bây giờ, Cụ Thọ Thiện Hiện Bạch Phật Bạch Thế Tôn Nếu Đại Bồ Tát thành tựu phương tiện thiện xảo như thế, thì từ khi phát tâm trở đi, phải trải qua thời gian bao lâu? Phật Dạy Này Thiện Hiện Đại Bồ Tát ấy từ khi phát tâm trở đi trải qua vô số trăm ngàn ức triệu kiếp Cụ Thọ Thiện Hiện lại Bạch Phật Bạch Thế Tôn Nếu Đại Bồ Tát thành tựu phương tiện thiện xảo như thế, thì đã từng gần gũi cúng dường bao nhiêu Đức Phật? Phật Dạy Này Thiện Hiện Đại Bồ Tát ấy đã từng gần gũi cúng dường hàng hà xa số Chiêu Phật Cụ Thọ Thiện Hiện lại Bạch Phật Bạch Thế Tôn Nếu Đại Bồ Tát thành tựu phương tiện thiện xảo như thế, đã từng gieo trồng bao nhiêu Thiện Trăng? Phật Dạy Này Thiện Hiện Đại Bồ Tát ấy từ khi phát tâm trở đi, không lúc nào đối với Bố Thí Ba-la-mật-đa mà chẳng tinh trần tu học viên mãn, không có lúc nào đối với Tịnh Giới Ba-la-mật-đa mà chẳng tinh trần tu học viên mãn, không có lúc nào đối với An-nhẫn Ba-la-mật-đa mà chẳng tinh trần tu học viên mãn, không có lúc nào đối với Tinh Tấn Ba-la-mật-đa mà chẳng tinh trần tu học viên mãn, không có lúc nào đối với Tịnh Lự Ba-la-mật-đa mà chẳng tinh trần tu học viên mãn, không có lúc nào đối với Bác Nhã Đại Bồ Tát ấy từ khi phát tâm trở đi, không có lúc nào đối với Pháp không nội mà chẳng tinh trần an trụ viên mãn, không có lúc nào đối với Pháp không ngoại, Pháp không nội ngoại, Pháp không không, Pháp không lớn, Pháp không thắng nghĩa, Pháp không hữu vi, Pháp không vô vi, Pháp không đốt tráo, Pháp không không biên giới, Pháp không tảng mạng, Pháp không không đổi khác, Pháp không bản tánh, Pháp không tự tướng, Pháp không tổng tướng, Pháp không tất cả Pháp, Pháp không chẳng thể nắm bắt được, Pháp không tự tướng, Pháp không tổng tướng, Pháp không tất cả Pháp, Ph không không tánh, Pháp không tự tánh, Pháp không không tánh tự tánh mà chẳng tinh trần an trụ viên mãn. Đại Bồ Tát ấy từ khi phát tâm trở đi, không có lúc nào đối với chân như mà chẳng tinh trần an trụ viên mãn, không có lúc nào đối với Pháp giới, Pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly xanh, Pháp định, Pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghị mà chẳng tinh trần an trụ viên mãn. Đại Bồ Tát ấy từ khi phát tâm trở đi, không có lúc nào đối với thánh đế khổ mà chẳng tinh trần an trụ viên mãn, không có lúc nào đối với thánh đế tập, diệt, đạo mà chẳng tinh trần an trụ viên mãn. Đại Bồ Tát ấy từ khi phát tâm trở đi, không có lúc nào đối với bốn tình lựu mà chẳng tinh trần tu tập viên mãn, không có lúc nào đối với bốn vô lương, bốn định vô sắc mà chẳng tinh trần tu tập viên mãn. Đại Bồ Tát ấy từ khi phát tâm trở đi, không có lúc nào đối với tám giải thoát mà chẳng tinh trần tu tập viên mãn, không có lúc nào đối với tám thắng xứ, chính định thứ đệ, mười biến xứ mà chẳng tinh trần tu tập viên mãn. Đại Bồ Tát ấy từ khi phát tâm trở đi, không có lúc nào đối với bốn niệm trụ mà chẳng tinh trần tu tập viên mãn, không có lúc nào đối với bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căng, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo mà chẳng tinh trần tu tập viên mãn. Đại Bồ Tát ấy từ khi phát tâm trở đi, không có lúc nào đối với pháp môn giải thoát không mà chẳng tinh trần tu tập viên mãn, không có lúc nào đối với pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện mà chẳng tinh trần tu tập viên mãn. Đại Bồ Tát ấy từ khi phát tâm trở đi, không có lúc nào đối với năm loại mắt mà chẳng tinh trần tu tập viên mãn, không có lúc nào đối với sáu phép thần thông mà chẳng tinh trần tu tập viên mãn. Đại Bồ Tát ấy từ khi phát tâm trở đi, không có lúc nào đối với mười lực Phật mà chẳng tinh trần tu tập viên mãn, không có lúc nào đối với bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xã, mười tám pháp Phật bất cộng mà chẳng tinh trần tu tập viên mãn. Đại Bồ Tát ấy từ khi phát tâm trở đi, không có lúc nào đối với Pháp không quên mất mà chẳng tinh trần tu tập viên mãn, không có lúc nào đối với tánh luôn luôn xã mà chẳng tinh trần tu tập viên mãn. Đại Bồ Tát ấy từ khi phát tâm trở đi, không có lúc nào đối với trí nhất thiết mà chẳng tinh trần tu tập viên mãn, không có lúc nào đối với trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng mà chẳng tinh trần tu tập viên mãn. Đại Bồ Tát ấy từ khi phát tâm trở đi, không có lúc nào đối với Pháp môn Đà-la-Ni mà chẳng tinh trần tu tập viên mãn, không có lúc nào đối với Pháp môn Ta-ma-địa mà chẳng tinh trần tu tập viên mãn. Đại Bồ Tát ấy từ khi phát tâm trở đi, không có lúc nào đối với hành Đại Bồ Tát mà chẳng tinh trần tu tập viên mãn, không có lúc nào đối với quả vị giác ngộ cao tổ của Chiêu Phật mà chẳng tinh trần tu tập viên mãn. Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát ấy từ khi phát tâm trở đi, gieo trồng các thứ thiện căng viên mãn như trên. Do nhân duyên này mà thành tựu phương tiện thiện xảo như thế, cụ Thọ Thiện Hiện lại bạch Phật. Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ Tát thành tựu phương tiện thiện xảo như thế, rất là hy hữu. Phật dạy! Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói, Đại Bồ Tát ấy thành tựu phương tiện thiện xảo như thế rất là hy hữu. Thiện Hiện nên biết! Như mặt trời, mặt trăng, lần lượt chiếu sáng thế giới bốn đại châu là một việc to lớn. Các loài hữu tình, phi tình trong thế giới ấy tùy theo thế lực ánh sáng ấy mà hoạt động, đều hoàn thành sự việc của mình. Cũng thế, Bác Nhã Ba-la-mật-đa chiếu sáng năm Ba-la-mật-đa khác làm sự việc to lớn. Năm Ba-la-mật-đa như Bố Thí V.V. tùy theo thế lực của Bác Nhã Ba-la-mật-đa mà chuyển vận đều hoàn thành sự việc của mình. Thiện Hiện nên biết! Bố Thí V.V. năm Ba-la-mật-đa đều do Bác Nhã Ba-la-mật-đa nhiếp thọ, mới được gọi là Ba-la-mật-đa. Nếu liệt Bác Nhã Ba-la-mật-đa, thì Bố Thí V.V. năm Ba-la-mật-đa chẳng được gọi là Ba-la-mật-đa. Thiện Hiện nên biết! Như chuyển luân vương, nếu không có bảy loại quý báu thì không được gọi là chuyển luân thánh vương, cần phải đủ bảy loại quý báu mới được gọi là chuyển luân thánh vương, Bố Thí V.V. năm Ba-la-mật-đa cũng giống như thế, nếu chẳng phải Bác Nhã Ba-la-mật-đa nhiếp thọ, thì chẳng được gọi là Ba-la-mật-đa, cần phải được Bác Nhã Ba-la-mật-đa nhiếp thọ mới được gọi là Ba-la-mật-đa. Thiện Hiện nên biết! Như có người nữ đẹp đẻ, giàu có, nếu không có người chồng khỏe mạnh bảo vệ thì dễ bị kẻ xấu xâm phạm. Bố Thí V.V. năm Ba-la-mật-đa cũng giống như thế, nếu không có sức nhiếp thọ của Bác Nhã Ba-la-mật-đa thì dễ bị thiên ma và quyến thủ của chúng phá hoại, gây trở ngại. Thiện Hiện nên biết! Như có người nữ đẹp đẻ, giàu có, nếu có người chồng khỏe mạnh bảo vệ thì chẳng bị kẻ xấu xâm phạm. Bố Thí V.V. năm Ba-la-mật-đa cũng giống như thế, nếu có thế lực của Bác Nhã Ba-la-mật-đa nhiếp hộ thì tất cả thiên ma và quyến thủ của chúng chẳng thể phá hoại, gây trở ngại. Thiện Hiện nên biết! Như có quân tướng khi lâm trận chuẩn bị tốt các thứ áo giáp, đao, trượng thì quán địch lân quốc chẳng thể hại được. Bố Thí V.V. năm Ba-la-mật-đa cũng giống như thế, nếu chẳng xa lịa Bác Nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, thì ma và quyến thủ, người tăng thượng mạng, cho đến bồ tác, chiên đồ la V.V. đều chẳng thể phá hoại được. Thiện Hiện nên biết! Như các tiểu vương ở châu Thiện Bộ, theo thời chầu hầu chuyển lương Thánh Vương, nhờ chuyển lương Vương nên được du ngoan cảnh đẹp. Bố Thí V.V. năm Ba-la-mật-đa cũng giống như vậy, tùy thuận Bác Nhã Ba-la-mật-đa, do thế lực Bác Nhã Ba-la-mật-đa dẫn đạo nên mau đạt đến quả vị giác ngộ cao tột. Thiện Hiện nên biết! Như các dòng sông phía đông của châu Thiện Bộ, đều chảy vào sông Hằng, cùng sông Hằng đổ ra biển cả. Bố Thí V.V. năm Ba-la-mật-đa cũng giống như thế, đều được Bác Nhã Ba-la-mật-đa nhất dẫn nên có thể đạt đến quả vị giác ngộ cao tột. Thiện Hiện nên biết! Như tay phải của người có thể làm các việc, Bác Nhã Ba-la-mật-đa sâu xa cũng như thế, có khả năng dẫn phát tất cả thiện pháp thù thắng. Thiện Hiện nên biết! Như tay trái của người làm việc bất tiện, Bố Thí V.V. năm Ba-la-mật-đa cũng giống như thế, chẳng có thể dẫn sanh thiện pháp thù thắng. Thiện Hiện nên biết! Thí như các dòng sông hoặc lớn, hoặc nhỏ, đều chảy vào biển cả, đồng một vị mặn, Bố Thí V.V. năm Ba-la-mật-đa cũng giống như vậy, đều được Bác Nhã Ba-la-mật-đa nhất thọ, cũng đạt đến quả vị giác ngộ cao tột. Do đó, đều gọi là đáo bỉ ngạn. Thiện Hiện nên biết! Như chuyển luân vương, muốn đi tuần thú, bốn thứ binh chủng đi theo, bánh xe báo ở trước, tới vua và bốn loại binh chủng, vua nghĩ muốn ăn uống, bánh xe liền dừng lại, ăn uống xong, vua nghĩ muốn đi, bánh xe liền đi trước. Bánh xe đi, dừng là tùy theo ý vua muốn, khi đến đích rồi không còn đi tới nữa. Bố Thí V.V. năm Ba-la-mật-đa cũng giống như thế, cùng các thiện pháp muốn đạt đến quả vị giác ngộ cao tột, cần phải nhờ vào Bác Nhã Ba-la-mật-đa để dẫn đường, tiếng dừng đều theo, chẳng lì bỏ nhau, khi đạt đến quả Phật rồi thì không dẫn đường nữa. Thiện Hiện nên biết! Như Chuyển Luân Vương đầy đủ bảy loại quý báo, đó là bánh xe báo, voi báo, ngựa báo, bề tôi báo, chủ kho tàn báo, nữ báo, tướng báo, ngọc như ý báo. Chuyển Luân Vương ấy muốn đến nơi nào, bốn thứ binh và bảy loại báo tùy tuần sau trước. Bây giờ, bánh xe báo tuy ở trước hết, nhưng chẳng phân biệt tướng trước sau. Bố Thí V.V. nằm Ba-la-mật-đa cũng giống như thế, cùng với các thiện Pháp muốn đạt đến quả vị giác ngộ cao tột, quyết dùng Bác Nhã Ba-la-mật-đa làm Pháp dẫn đầu. Nhưng Bác Nhã Ba-la-mật-đa này chẳng nghĩ thế này, đối với Bố Thí, tình giới, an nhẫn, tinh tấn, tình lựu Ba-la-mật-đa ta là Pháp dẫn đầu, các Pháp chia theo ta. Bố Thí V.V. nằm Ba-la-mật-đa chẳng nghĩ thế này, Bác Nhã Ba-la-mật-đa sâu xa ở trước chúng ta, chúng ta tùy tùng Pháp ấy. Vì sao? Này thiện hiện! Vì Ba-la-mật-đa và tất cả Pháp, tự tánh đều trì độn, không làm được gì, hư vọng chẳng thật, đổng không, không sở hữu, tướng chẳng tự tại, giống như bóng nắng, trăng dưới nước, hình trong gương V. V. ở trong đó hoàn toàn không có tự thể chân thật phân biệt tác dụng. Bây giờ, cụ thọ thiện hiện Bạch Phật. Bạch Thế Tôn Nếu tất cả Pháp, tự tánh đều không, thì tại sao Đại Bồ-Tát tinh cận tu học Bố Thí, tình giới, an nhẫn, tinh tấn, tình lựu, Bác Nhã Ba-la-mật-đa, sẽ đắc quả vị giác ngộ cao tột? Phật dạy! Này thiện hiện! Khi các Đại Bồ-Tát đối với sáu phép Ba-la-mật-đa này, khuyên tu học, thường nghĩ thế này, hữu tình thế gian, tâm đều điên đảo, vì khổ sanh tử, chẳng thể tự thoát. Nếu ta không tu phương tiện thiện xảo, thì chẳng có thể giải thoát khổ sanh tử kia. Ta sẽ vì các loài hữu tình ấy, tinh cận tu học thiện xảo phương tiện Bố Thí, tình giới, an nhẫn, tinh tấn, tình lựu, Bác Nhã Ba-la-mật-đa. Này thiện hiện! Đại Bồ-Tát ấy nghĩ thế xong, vì các hữu tình xả bỏ vật bên trong, bên ngoài, xả bỏ rồi lại nghĩ thế này, ta đối với vật này hoàn toàn không có sự xả bỏ. Vì sao? Vì vật này tự tánh trong ngoài đều là không, chẳng quan hệ với ta, chẳng thể xả bỏ. Này thiện hiện! Do đó, Đại Bồ-Tát ấy quan sát tu hành Bố Thí Ba-la-mật-đa mau được viên mãn, chống chứng quả vị giác ngộ cao tột. Này thiện hiện! Đại Bồ-Tát ấy, vì các hữu tình chẳng bao giờ phạm giới. Vì sao? Vì Đại Bồ-Tát ấy thường nghĩ thế này, ta vì hữu tình cầu đạt quả vị giác ngộ cao tột, mà giết hại sanh mạng, không cho mà lấy, dâm dục ta hạnh là điều chẳng nên. Ta vì hữu tình cầu đạt quả vị giác ngộ cao tột, mà nói lời hư dối, nói lời ly gián, nói lời thô ác, nói lời hỗn tạp là điều chẳng nên. Ta vì hữu tình cầu đạt quả vị giác ngộ cao tột, mà phát khởi thăm muốn, sân hận, tạ kiến là điều chẳng nên. Ta vì hữu tình cầu đạt quả vị giác ngộ cao tột, mà cầu cảnh giới dịu dục, cầu sự giàu có an vui cõi trời, cầu làm đế típ mà, Phạm Vương V.V. là điều chẳng nên. Ta vì hữu tình cầu đạt quả vị giác ngộ cao tột, mà cầu an trụ thanh văn hoặc độc giác là điều chẳng nên. Này thiện hiện! Do đó, Đại Bồ-Tát ấy quan sát tu hành tịnh giới Ba-la-mật-đa này mau được viên mãn, chống chính quả vị giác ngộ cao tột. Này thiện hiện! Đại Bồ-Tát ấy vì các hữu tình chẳng khởi sân hận, giả sử thường bị hủy bán, lăn nhục bằng lời đau đớn, cay đắng, các đức tiêm tuổi, chẳng bao giờ phát khởi một niệm sân hận. Lại dù thường bị các vật đau, trường, gạch, đá, gậy, đất vùng V.V. đánh đụng vào thân, cắt, xẻo, chích, đâm, xẻ từng bộ phần cơ thể, cũng chẳng phát khởi một niệm ác. Vì sao? Vì Đại Bồ-Tát ấy quan sát tất cả âm thanh như tiếng vang trong hang núi, sát như bọc bèo. Ta vì lợi ích cho tất cả hữu tình, chẳng nên đối với sự việc này mà vọng khởi sân hận. Này thiện hiện! Do đó, Đại Bồ-Tát ấy quan sát tu hành an nhẫn Ba-la-mật-đa-mau được viên mãn, chống chứng quả vị giác ngộ cao tột. Này thiện hiện! Đại Bồ-Tát ấy vì các hữu tình xuyên cầu thiện pháp cho đến khi đạt quả vị giác ngộ cao tột, ở khoảng giữa thường không giải đải. Vì sao? Vì Đại Bồ-Tát ấy thường nghĩ thế này, nếu ta giải đải, thì chẳng có thể cứu giúp sanh lão bệnh tử của các loại hữu tình, cũng chẳng có thể đạt được sở cầu là quả vị giác ngộ cao tột. Này thiện hiện! Do đó, Đại Bồ-Tát ấy quan sát tu hành tinh tấn Ba-la-mật-đa-mau được viên mãn, chống chứng quả vị giác ngộ cao tột. Này thiện hiện! Đại Bồ-Tát ấy vì các hữu tình tu các định thu thắng, cho đến khi đạt quả vị giác ngộ cao tột, không bao giờ phát khởi tâm tán loạn, tam, sân, si-ve, ve. Vì sao? Vì Đại Bồ-Tát ấy thường nghĩ thế này, nếu ta phát khởi tâm câu hành tam, tâm câu hành sân, tâm câu hành si và tâm tán loạn đối với các sự việc khác, thì chẳng có thể thành tựu sự việc lợi ích cho người khác, cũng chẳng có thể đạt được sở cầu là quả vị giác ngộ cao tột. Này thiện hiện! Do đó, Đại Bồ-Tát ấy quan sát tu hành tình lựu ba-la-mật-đa-mau được viên mãn, chống chứng quả vị giác ngộ cao tột. Này thiện hiện! Đại Bồ-Tát ấy vì các hữu tình thường chẳng xa lịa bát nhã ba-la-mật-đa sâu xa, cho đến khi đạt quả vị giác ngộ cao tột, thường xuyên tu học trí tuệ thu thắng vi diệu thế gian và phức thế gian. Vì sao? Vì các Đại Bồ-Tát ấy thường nghĩ thế này, nếu làm sai khác bát nhã ba-la-mật-đa, thì chẳng bao giờ thành tựu sự việc lợi lạc cho người khác, cũng chẳng có thể đạt được sở cầu là quả vị giác ngộ cao tột. Này thiện hiện! Do đó, Đại Bồ-Tát ấy quan sát tu hành bát nhã ba-la-mật-đa-mau được viên mãn, chống chứng quả vị giác ngộ cao tột. Lúc bấy giờ, cụ thọ thiện hiện bạch Phật. Bạch Thế Tôn Nếu sáu phép ba-la-mật-đa, tướng không sai biệt, thì đều do bát nhã ba-la-mật-đa nhiếp thọ, đều do bát nhã ba-la-mật-đa tu thành tựu viên mãn, nên hợp thành một ba-la-mật-đa, đó là bát nhã ba-la-mật-đa. Tại sao có thể nói bát nhã ba-la-mật-đa sâu xa đối với bố thí v? Ba-la-mật-đa là tối, là thắng, là trưởng, là tôn, là diệu, là vi diệu, là thượng, là vô thượng. Phật dạy Này thiện hiện Đúng như thế Đúng như thế Đúng như lời ông nói, bố thí v, v, sáu phép ba-la-mật-đa không có tướng sai biệt, nếu không có bát nhã ba-la-mật-đa thì bố thí v, v, năm Pháp chẳng được gọi là ba-la-mật-đa, cần nhờ bát nhã ba-la-mật-đa mà bố thí v, v, năm Pháp mới được gọi là ba-la-mật-đa. Do vì năm ba-la-mật-đa trước này đều thâu gồm trong bát nhã ba-la-mật-đa, nên chỉ có một ba-la-mật-đa đó là bát nhã ba-la-mật-đa. Vì vậy, tất cả ba-la-mật-đa không có tướng sai biệt. Thiện hiện nên biết Như các hữu tình, tuy có các loại thân tướng sai khác, nhưng nếu gần gũi với núi chúa dịu cao thì đều cùng một sắc, bố thí v, v, năm ba-la-mật-đa cũng giống như vậy, tuy có các phẩm loại sai biệt, nhưng vì được bát nhã ba-la-mật-đa nhất thọ, nên đều do bát nhã ba-la-mật-đa mà tu hành thành tự viên mãng, đương vào bát nhã ba-la-mật-đa, mới có thể nhập vào trí nhất thiết trí, mới được gọi là đến bờ bên kia, đều đồng một vị, tướng không sai biệt. Chẳng thể an lập đây là bố thí ba-la-mật-đa, đây là tỉnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tỉnh lự, bát nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Này thiện hiện, vì sáu phép ba-la-mật-đa như thế có thể cùng hướng nhập trí nhất thiết trí, có thể đến bờ bên kia, tướng không sai biệt. Do nhân duyên ấy, bố thí v, v, sáu phép ba-la-mật-đa không có tướng sai biệt. Cụ thọ thiện hiện lại Bạch Phật Ba-la-mật-đa và tất cả Pháp, nếu theo thật nghĩa, đều không có sự sai biệt đây, kia, hơn, kém, thì do nhân duyên gì mà nói bát nhã ba-la-mật-đa sâu xa, đối với bố thí v, v, các ba-la-mật-đa là tối, là thắng, là trưởng, là tôn, là dịu, là ví dịu, là thường, là vô thường. Phật dạy. Này thiện hiện. Đúng vậy. Đúng vậy. Đúng như lời ông nói, nếu theo thật nghĩa thì ba-la-mật-đa và tất cả Pháp đều không có sự sai biệt đây, kia, hơn, kém, nương thế tục nên nói có tác dụng, nói có sai biệt kia, đây, hơn, thua, thiết lập bố thí ba-la-mật-đa, thiết lập tỉnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tình lự, bát nhã ba-la-mật-đa, vì muốn đổ thoát sanh lão bệnh tử có tác dụng thế tục của các loại hữu tình. Nhưng sự sanh lão bệnh tử của các hữu tình đều chẳng phải thật có, chỉ giả đặt ra mà thôi. Vì sao? Vì hữu tình không có, nên biết các Pháp cũng không có sở hữu, bát nhã ba-la-mật-đa sâu xa liễu đạt tất cả, hoàn toàn không có sở hữu, có thể có tác dụng cứu vớt hữu tình thế tục khỏi sanh lão bệnh tử. Do đó nên nói, bát nhã ba-la-mật-đa sâu xa đối với bố thí ba-la-mật-đa v.v. là tối, là thắng, là trưởng, là tôn, là dịu, là vi dịu, là thường, là vô thường. Thiện hiện nên biết, như chuyển Luân Vương có Ngọc Nữ quý báu, đối với người nữ trong nhân gian, là tối, là thắng, là trưởng, là tôn, là dịu, là vi dịu, là thường, là vô thường. Bát nhã ba-la-mật-đa cũng vậy, đối với bố thí ba-la-mật-đa v.v. là tối, là thắng, là trưởng, là tôn, là dịu, là vi dịu, là thường, là vô thường. Cụ thỏ thiện hiện lại bạch Phật. Vì nhân duyên dị mà Phật chỉ tuyên nói bát nhã ba-la-mật-đa, đối với bố thí ba-la-mật-đa v.v. là tối, là thắng, là trưởng, là tôn, là dịu, là vi dịu, là thường, là vô thường. Phật dạy. Này thiện hiện! Do bát nhã ba-la-mật-đa này có khả năng khéo nhiếp thủ tất cả thiện pháp hòa hợp hướng nhập trí nhất thiết trí, an trụ bất động, dùng vô sở trụ làm phương tiện. Cụ thỏ thiện hiện lại bạch Phật. Bạch Thế Tôn. Bát nhã ba-la-mật-đa như thế, đối với các thiện pháp có thủ xã chăng? Phật dạy. Không. Bát nhã ba-la-mật-đa sâu xa đối với tất cả pháp không thủ, không xã. Vì sao? Này thiện hiện! Vì tất cả pháp đều chẳng thể thủ, chẳng thể xã. Lúc bấy giờ, cụ thỏ thiện hiện lại bạch Phật. Bạch Thế Tôn. Bát nhã ba-la-mật-đa sâu xa đối với những pháp nào không thủ, không xã? Phật dạy. Này thiện hiện! Bát nhã ba-la-mật-đa sâu xa đối với sắc, không thủ, không xã, đối với thọ, tưởng, hành, thức, không thủ, không xã. Bát nhã ba-la-mật-đa sâu xa đối với nhãn xứ, không thủ, không xã, đối với nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý xứ, không thủ, không xã. Bát nhã ba-la-mật-đa sâu xa đối với sắc xứ, không thủ, không xã, đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, không thủ, không xã. Bát nhã ba-la-mật-đa sâu xa đối với nhãn giới, không thủ, không xã, đối với nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý giới, không thủ, không xã. Bát nhã ba-la-mật-đa sâu xa đối với sắc giới, không thủ, không xã, đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp giới, không thủ, không xã. Bát nhã ba-la-mật-đa sâu xa đối với nhãn thức giới, không thủ, không xã, đối với nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý thức giới, không thủ, không xã. Bát nhã ba-la-mật-đa sâu xa đối với nhãn xúc, không thủ, không xã, đối với nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý xúc, không thủ, không xã. Bát nhã ba-la-mật-đa sâu xa đối với các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, không thủ, không xã, đối với các thọ do nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra, không thủ, không xã. Bát nhã ba-la-mật-đa sâu xa đối với địa giới, không thủ, không xã, đối với thủy, hỏa, phong, không, thức giới, không thủ, không xã. Bát nhã ba-la-mật-đa sâu xa đối với vô minh, không thủ, không xã, đối với hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, thang, khổ, ưu, não, không thủ, không xã. Bát nhã ba-la-mật-đa sâu xa đối với bố thí ba-la-mật-đa, không thủ, không xã, đối với tình giới, an nhẫn, tinh tấn, tình lự, bát nhã ba-la-mật-đa, không thủ, không xã. Bát nhã ba-la-mật-đa sâu xa đối với Pháp không nội, không thủ, không xã, đối với Pháp không ngoại, Pháp không nội ngoại, Pháp không không, Pháp không lớn, Pháp không thắng nhĩa, Pháp không hữu vi, Pháp không vô vi, Pháp không trốt tráo, Pháp không không biên giới, Pháp không tảng mạng, Pháp không không đội khác, Pháp không bản tánh, Pháp không tự tướng, Pháp không tổng tướng, Pháp không tất cả Pháp, Pháp không chẳng thể nắm bắt được, Pháp không không tánh, Pháp không tự tánh, Pháp không không tánh. Tự tánh, không thủ, không xã. Bát nhã ba-la-mật-đa sâu xa đối với chân như, không thủ, không xã, đối với Pháp giới, Pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đội khác, tánh bình đẳng, tánh ly xanh, định pháp, trụ pháp, thực tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tương nghi, không thủ, không xã. Bát nhã ba-la-mật-đa sâu xa đối với thánh đế khổ, không thủ, không xã, đối với thánh đế tập, diệt, đạo, không thủ, không xã. Bát nhã ba-la-mật-đa sâu xa đối với bốn tình lự, không thủ, không xã, đối với bốn vô lượng, bốn định vô sắc, không thủ, không xã. Bát nhã ba-la-mật-đa sâu xa đối với tám giải thoát, không thủ, không xã, đối với tám thắng xướng, chính định thứ đệ, mười biến xướng, không thủ, không xã. Bát nhã ba-la-mật-đa sâu xa đối với bốn niệm trụ, không thủ, không xã, đối với bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căng, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo, không thủ, không xã. Bát nhã ba-la-mật-đa sâu xa đối với pháp môn giải thoát không, không thủ, không xã, đối với pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện, không thủ, không xã. Bát nhã ba-la-mật-đa sâu xa đối với năm loại mắt, không thủ, không xã, đối với sáu phép thần thông, không thủ, không xã. Bát nhã ba-la-mật-đa sâu xa đối với mười lực Phật, không thủ, không xã, đối với bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xã, mười tám Pháp Phật bất cộng, không thủ, không xã. Bát nhã ba-la-mật-đa sâu xa đối với pháp không quên mất, không thủ, không xã, đối với tánh luôn luôn xã, không thủ, không xã. Bát nhã ba-la-mật-đa sâu xa đối với trí nhất thiết, không thủ, không xã, đối với trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, không thủ, không xã. Bát nhã ba-la-mật-đa sâu xa đối với tất cả pháp môn Đà-la-ni, không thủ, không xã, đối với tất cả pháp môn Tam-ma-địa, không thủ, không xã. Bát nhã ba-la-mật-đa sâu xa đối với quả dự lưu, không thủ, không xã, đối với quả nhất lai, bất hoàng, à-la-hắng, không thủ, không xã. Bát nhã ba-la-mật-đa sâu xa đối với quả vị độc giác, không thủ, không xã. Bát nhã ba-la-mật-đa sâu xa đối với tất cả hành đại Bồ-Tát, không thủ, không xã. Bát nhã ba-la-mật-đa sâu xa đối với quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật, không thủ, không xã. Cụ Thọ Thiện Hiện Lại Bạch Phật Bạch Thế Tôn Bát nhã ba-la-mật-đa sâu xa tại sao đối với sắc, không thủ, không xã? Tại sao đối với thọ, tưởng, hành, thức, không thủ, không xã? Bát nhã ba-la-mật-đa sâu xa tại sao đối với nhãn xướng, không thủ, không xã? Tại sao đối với nhĩ, tỉ, thiệt, thân, y xướng, không thủ, không xã? Bát nhã ba-la-mật-đa sâu xa tại sao đối với sắc xướng, không thủ, không xã? Tại sao đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, không thủ, không xã? Bát nhã ba-la-mật-đa sâu xa tại sao đối với nhãn giới, không thủ, không xã? Tại sao đối với nhĩ, tỉ, thiệt, thân, y giới, không thủ, không xã? Bát nhã ba-la-mật-đa sâu xa tại sao đối với sắc giới, không thủ, không xã? Tại sao đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp giới, không thủ, không xã? Bát nhã ba-la-mật-đa sâu xa tại sao đối với nhãn thức giới, không thủ, không xã? Tại sao đối với nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý thức giới, không thủ, không xã? Bát nhã ba-la-mật-đa sâu xa tại sao đối với nhãn xúc, không thủ, không xã? Tại sao đối với nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý xúc, không thủ, không xã? Bát nhã ba-la-mật-đa sâu xa tại sao đối với các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, không thủ, không xã? Tại sao đối với các thọ do nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra, không thủ, không xã? Bát nhã ba-la-mật-đa sâu xa tại sao đối với địa giới, không thủ, không xã? Tại sao đối với thủy, hỏa, phong, không, thức giới, không thủ, không xã? Bát nhã ba-la-mật-đa sâu xa tại sao đối với vô minh, không thủ, không xã? Tại sao đối với hành, thức, danh sắc, luật sứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, thang, khổ, ưu, não, không thủ, không xã? Bát nhã ba-la-mật-đa sâu xa tại sao đối với bố thí ba-la-mật-đa, không thủ, không xã? Tại sao đối với tỉnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tỉnh lự, bát nhã ba-la-mật-đa, không thủ, không xã? Bát nhã ba-la-mật-đa sâu xa tại sao đối với Pháp không nội, không thủ, không xã? Tại sao đối với Pháp không ngoại, Pháp không nội ngoại, Pháp không không, Pháp không lớn, Pháp không thắng nghĩa, Pháp không hữu vi, Pháp không vô vi, Pháp không đốt cháo? Pháp không không biên giới, Pháp không tảng mạng, Pháp không không đổi khác, Pháp không bản tánh, Pháp không tự tướng, Pháp không cộng tướng, Pháp không tất cả Pháp, Pháp không chẳng thể nắm bắt được, Pháp không không tánh, Pháp không tự tánh, Pháp không không tánh tự tánh, không thủ, không xã? Bát nhã ba-la-mật-đa sâu xa tại sao đối với chân như, không thủ, không xã? Tại sao đối với Pháp giới, Pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly xanh, định Pháp, trụ Pháp, thực tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tương nhì, không thủ, không xã? Bát nhã ba-la-mật-đa sâu xa tại sao đối với thánh đế khổ, không thủ, không xã? Tại sao đối với thánh đế tập, diệt, đạo, không thủ, không xã? Bát nhã ba-la-mật-đa sâu xa tại sao đối với bốn tịnh lự, không thủ, không xã? Tại sao đối với bốn vô lượng, bốn định vô sắc, không thủ, không xã? Bát nhã ba-la-mật-đa sâu xa tại sao đối với tám giải thoát, không thủ, không xã? Tại sao đối với tám tháng xứ, chính định thứ đệ, mười biến xứ, không thủ, không xã? Bát nhã ba-la-mật-đa sâu xa tại sao đối với bốn niệm trụ, không thủ, không xã? Tại sao đối với bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm trăng, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo, không thủ, không xã? Bát nhã ba-la-mật-đa sâu xa tại sao đối với pháp môn giải thoát không, không thủ, không xã? Tại sao đối với pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện, không thủ, không xã? Bát nhã ba-la-mật-đa sâu xa tại sao đối với năm loại mắt, không thủ, không xã? Tại sao đối với sáu phép thần thông, không thủ, không xã? Bát nhã ba-la-mật-đa sâu xa tại sao đối với mười lực Phật, không thủ, không xã? Tại sao đối với bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại đi, đại hỷ, đại xã, mười tám pháp Phật bất cộng, không thủ, không xã? Bát nhã ba-la-mật-đa sâu xa tại sao đối với pháp không quên mất, không thủ, không xã? Tại sao đối với tánh luôn luôn xã, không thủ, không xã? Bát nhã ba-la-mật-đa sâu xa tại sao đối với trí nhất thiết, không thủ, không xã? Tại sao đối với trí đạo tướng? Trí nhất thiết tướng, không thủ, không xã? Bát nhã ba-la-mật-đa sâu xa tại sao đối với tất cả pháp môn Đà-la-ni, không thủ, không xã? Tại sao đối với tất cả pháp môn Tam-ma-địa, không thủ, không xã? Bát nhã ba-la-mật-đa sâu xa tại sao đối với quả dự lương, không thủ, không xã? Tại sao đối với quả nhất lai, bất hoàng, A-la-hán, không thủ, không xã? Bát nhã ba-la-mật-đa sâu xa tại sao đối với quả vị độc giác, không thủ, không xã? Bát nhã ba-la-mật-đa sâu xa tại sao đối với tất cả hành đại Bồ-Tát, không thủ, không xã? Bát nhã ba-la-mật-đa sâu xa tại sao đối với quả vị giác ngộ cao tột của chiêu Phật, không thủ, không xã? Phật dạy Này thiện hiện Bát nhã ba-la-mật-đa sâu xa chẳng tư duy sắc, vì vậy đối với sắc không thủ, không xã, chẳng tư duy thọ, tưởng, hành, thức, vì vậy đối với thọ, tưởng, hành, thức không thủ, không xã. Bát nhã ba-la-mật-đa sâu xa chẳng tư duy nhãn xứ, vì vậy đối với nhãn xứ không thủ, không xã, chẳng tư duy nhĩ, tỉ, thiệt, thân, y xứ, vì vậy đối với nhĩ, tỉ, thiệt, thân, y xứ không thủ, không xã. Bát nhã ba-la-mật-đa sâu xa chẳng tư duy sắc xứ, vì vậy đối với sắc xứ không thủ, không xã, chẳng tư duy thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, vì vậy đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ không thủ, không xã. Bát nhã ba-la-mật-đa sâu xa chẳng tư duy nhãn xứ, vì vậy đối với nhãn xứ không thủ, không xã, chẳng tư duy nhĩ, tỉ, thiệt, thân, y xứ, vì vậy đối với nhĩ, tỉ, thiệt, thân, y xứ không thủ, không xã. Bát nhã ba-la-mật-đa sâu xa chẳng tư duy sắc giới, vì vậy đối với sắc giới không thủ, không xã, chẳng tư duy thanh, hương, vị, xúc, pháp giới, vì vậy đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp giới không thủ, không xã. Bát nhã ba-la-mật-đa sâu xa chẳng tư duy nhãn thức giới, vì vậy đối với nhãn thức giới không thủ, không xã, chẳng tư duy nhĩ, tỉ, thiệt, thân, y xứ, vì vậy đối với nhĩ, tỉ, thiệt, thân, y xứ giới không thủ, không xã. Bát nhã ba-la-mật-đa sâu xa chẳng tư duy nhãn thức, vì vậy đối với nhãn thức không thủ, không xã, chẳng tư duy nhĩ, tỉ, thiệt, thân, y xứ, vì vậy đối với nhĩ, tỉ, thiệt, thân, y xứ không thủ, không xã. Bát nhã ba-la-mật-đa sâu xa chẳng tư duy các thọ do nhãn xuất làm duyên sanh ra, vì vậy đối với các thọ do nhãn xuất làm duyên sanh ra không thủ, không xã, chẳng tư duy các thọ do nhĩ, tỉ, thiệt, thân, y xuất làm duyên sanh ra, vì vậy đối với các thọ do nhĩ, tỉ, thiệt, thân, y xuất làm duyên sanh ra không thủ, không xã. Bát nhã ba-la-mật-đa sâu xa chẳng tư duy địa giới, vì vậy đối với địa giới không thủ, không xã, chẳng tư duy thủy, hỏa, phong, không, thức giới, vì vậy đối với thủy, hỏa, phong, không, thức giới không thủ, không xã. Bát nhã ba-la-mật-đa sâu xa chẳng tư duy vô minh, vì vậy đối với vô minh không thủ, không xã, chẳng tư duy hành, thức, danh sách, lục xứ, xuất, thọ, ái, thủ, hữu, sanh lão tử, sầu, thang, khổ, ưu, não, vì vậy đối với hành cho đến lão tử, sầu, thang, khổ, ưu, não không thủ, không xã. Bát nhã ba-la-mật-đa sâu xa chẳng tư duy bố thí ba-la-mật-đa, vì vậy đối với bố thí ba-la-mật-đa không thủ, không xã, chẳng tư duy tỉnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, bát nhã ba-la-mật-đa, vì vậy đối với tỉnh giới cho đến bát nhã ba-la-mật-đa không thủ, không xã. Bát nhã ba-la-mật-đa sâu xa chẳng tư duy Pháp không nội, vì vậy đối với Pháp không nội không thủ, không xã, chẳng tư duy Pháp không ngoại, Pháp không nội ngoại, Pháp không không, Pháp không lớn, Pháp không thắng nỉa, Pháp không hữu vi, Pháp không vô vi, Pháp không rốt tráo, Pháp không không biên giới, Pháp không tảng mạng, Pháp không không đội khác, Pháp không bản tánh, Pháp không tự tướng, Pháp không tổng tướng, Pháp không tất cả Pháp, Pháp không chẳng thể nắm bắt được, Pháp không không tánh. Pháp không tự tánh, Pháp không không tánh tự tánh, vì vậy đối với Pháp không ngoại cho đến Pháp không không tánh tự tánh không thủ, không xã. Bác Nhã-Ba-La-Mật-Đa sâu xa chẳng tư duy chân như, vì vậy đối với chân như không thủ, không xã, chẳng tư duy Pháp giới, Pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đội khác, tánh bình đẳng, tánh ly xanh, Pháp định, Pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghị, vì vậy đối với Pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghị không thủ, không xã. Bác Nhã-Ba-La-Mật-Đa sâu xa chẳng tư duy thánh đế khổ, vì vậy đối với thánh đế khổ không thủ, không xã, chẳng tư duy thánh đế tập, diệt, đạo, vì vậy đối với thánh đế tập, diệt, đạo không thủ, không xã. Bác Nhã-Ba-La-Mật-Đa sâu xa chẳng tư duy bốn tình lự, vì vậy đối với bốn tình lự không thủ, không xã, chẳng tư duy bốn vô lượng, bốn định vô sắc, vì vậy đối với bốn vô lượng, bốn định vô sắc không thủ, không xã. Bác Nhã-Ba-La-Mật-Đa sâu xa chẳng tư duy tám giải thoát, vì vậy đối với tám giải thoát không thủ, không xã, chẳng tư duy tám tháng sướng, chính định thứ đệ, mười biến sướng, vì vậy đối với tám tháng sướng, chính định thứ đệ, mười biến sướng không thủ, không xã. Bác Nhã-Ba-La-Mật-Đa sâu xa chẳng tư duy bốn niệm trụ, vì vậy đối với bốn niệm trụ không thủ, không xã, chẳng tư duy bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căng, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo, vì vậy đối với bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo không thủ, không xã. Bác Nhã-Ba-La-Mật-Đa sâu xa chẳng tư duy pháp môn giải thoát không, vì vậy đối với pháp môn giải thoát không không thủ, không xã, chẳng tư duy pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện, vì vậy đối với pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện không thủ, không xã. Bác Nhã-Ba-La-Mật-Đa sâu xa chẳng tư duy năm loại mắt, vì vậy đối với năm loại mắt không thủ, không xã, chẳng tư duy sáu phép thần thông, vì vậy đối với sáu phép thần thông không thủ, không xã. Bác Nhã-Ba-La-Mật-Đa sâu xa chẳng tư duy mười lực Phật, vì vậy đối với mười lực Phật không thủ, không xã, chẳng tư duy bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xã, mười tám pháp Phật bất công, vì vậy đối với bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng không thủ, không xã. Bác Nhã-Ba-La-Mật-Đa sâu xa chẳng tư duy Pháp không quên mất, vì vậy đối với Pháp không quên mất không thủ, không xã, chẳng tư duy tánh luôn luôn xã, vì vậy đối với tánh luôn luôn xã không thủ, không xã. Bác Nhã-Ba-La-Mật-Đa sâu xa chẳng tư duy trí nhất thiết, vì vậy đối với trí nhất thiết không thủ, không xã, chẳng tư duy trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, vì vậy đối với trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng không thủ, không xã. Bác Nhã-Ba-La-Mật-Đa sâu xa chẳng tư duy tất cả Pháp Môn Đà-La-Ni, vì vậy đối với tất cả Pháp Môn Đà-La-Ni không thủ, không xã, chẳng tư duy tất cả Pháp Môn Tam-Ma-Địa, vì vậy đối với tất cả Pháp Môn Tam-Ma-Địa không thủ, không xã. Bác Nhã-Ba-La-Mật-Đa sâu xa chẳng tư duy quả dự lưu, vì vậy đối với quả dự lưu không thủ, không xã, chẳng tư duy quả nhất lai, bất hoàng, A-La-Hán, vì vậy đối với quả nhất lai, bất hoàng, A-La-Hán không thủ, không xã. Bác Nhã-Ba-La-Mật-Đa sâu xa chẳng tư duy quả vị độc giác, vì vậy đối với quả vị độc giác không thủ, không xã. Bác Nhã-Ba-La-Mật-Đa sâu xa chẳng tư duy quả vị giác ngộ cao tột của Chiêu Phật, vì vậy đối với quả vị giác ngộ cao tột của Chiêu Phật không thủ, không xã. Cụ Thọ Thiện Hiện Lại Bạch Phật Bạch Thế Tôn Bác Nhã-Ba-La-Mật-Đa sâu xa chẳng tư duy sắc như thế nào? Chẳng tư duy thọ, tưởng, hành, thức như thế nào? Bác Nhã-Ba-La-Mật-Đa sâu xa chẳng tư duy nhãn xứng như thế nào? Chẳng tư duy nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý xứng như thế nào? Bác Nhã-Ba-La-Mật-Đa sâu xa chẳng tư duy sắc xứng như thế nào? Chẳng tư duy thanh, hương, vị, xúc, pháp xứng như thế nào? Bác Nhã-Ba-La-Mật-Đa sâu xa chẳng tư duy nhãn giới như thế nào? Chẳng tư duy nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý giới như thế nào? Bác Nhã-Ba-La-Mật-Đa sâu xa chẳng tư duy sắc giới như thế nào? Chẳng tư duy thanh, hương, vị, xúc, pháp giới như thế nào? Bác Nhã-Ba-La-Mật-Đa sâu xa chẳng tư duy nhãn thức giới như thế nào? Chẳng tư duy nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý thức giới như thế nào? Bác Nhã-Ba-La-Mật-Đa sâu xa chẳng tư duy nhãn xúc như thế nào? Chẳng tư duy nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý xúc như thế nào? Bác Nhã-Ba-La-Mật-Đa sâu xa chẳng tư duy các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra như thế nào? Chẳng tư duy các thọ do nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra như thế nào? Bác Nhã-Ba-La-Mật-Đa sâu xa chẳng tư duy địa giới như thế nào? Chẳng tư duy thủy, hỏa, phong, không, thức giới như thế nào? Bác Nhã-Ba-La-Mật-Đa sâu xa chẳng tư duy vô minh như thế nào? Chẳng tư duy hành, thức, danh sách, luật sứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, thang, khổ, ưu, não như thế nào? Bác Nhã-Ba-La-Mật-Đa sâu xa chẳng tư duy bố thí Ba-La-Mật-Đa như thế nào? Chẳng tư duy tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bác Nhã-Ba-La-Mật-Đa như thế nào? Bác Nhã-Ba-La-Mật-Đa sâu xa chẳng tư duy Pháp không nội như thế nào? Chẳng tư duy Pháp không ngoại, Pháp không nội ngoại, Pháp không không, Pháp không lớn, Pháp không thắng nỉa, Pháp không hữu vi, Pháp không vô vi, Pháp không rốt tráo, Pháp không không biên giới, Pháp không tảng mạng, Pháp không không đội khác, Pháp không bản tánh, Pháp không tự tướng, Pháp không tổng tướng, Pháp không tất cả Pháp, Pháp không chẳng thể nắm bắt được, Pháp không không tánh, Pháp không tự tánh. Pháp không không tánh tự tánh như thế nào? Bác Nhã-Ba-La-Mật-Đa sâu xa chẳng tư duy chân như như thế nào? Chẳng tư duy Pháp giới, Pháp tánh, tánh chẳng hưu vọng, tánh chẳng đội khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định Pháp, trụ Pháp, thực tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nhiên như thế nào? Bác Nhã-Ba-La-Mật-Đa sâu xa chẳng tư duy thánh đế khổ như thế nào? Chẳng tư duy thánh đế tập, việt, đạo như thế nào? Bác Nhã-Ba-La-Mật-Đa sâu xa chẳng tư duy 4 tịnh lượng như thế nào? Chẳng tư duy 4 vô lượng, 4 định vô sắc như thế nào? Bác Nhã-Ba-La-Mật-Đa sâu xa chẳng tư duy 8 giải thoát như thế nào? Chẳng tư duy 8 thắng xứ, 9 định thứ đệ, 10 biến xứ như thế nào? Bác Nhã-Ba-La-Mật-Đa sâu xa chẳng tư duy 4 niệm trụ như thế nào? Chẳng tư duy 4 chánh đoạn, 4 thần túc, 5 căng, 5 lực, 7 chi đẳng giác, 8 chi thánh đạo như thế nào? Bác Nhã-Ba-La-Mật-Đa sâu xa chẳng tư duy pháp môn giải thoát không như thế nào? Chẳng tư duy pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện như thế nào? Bác Nhã-Ba-La-Mật-Đa sâu xa chẳng tư duy 5 loại mắt như thế nào? Chẳng tư duy 6 phép thần thông như thế nào? Bác Nhã-Ba-La-Mật-Đa sâu xa chẳng tư duy 10 lực Phật như thế nào? Chẳng tư duy 4 điều không sợ, 4 sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xã, 18 pháp Phật bất cộng như thế nào? Bác Nhã-Ba-La-Mật-Đa sâu xa chẳng tư duy pháp không quên mất như thế nào? Chẳng tư duy tánh luôn luôn xã như thế nào? Bác Nhã-Ba-La-Mật-Đa sâu xa chẳng tư duy trí nhất thiết như thế nào? Chẳng tư duy trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng như thế nào? Bác Nhã-Ba-La-Mật-Đa sâu xa chẳng tư duy tất cả pháp môn Đà-La-Ni như thế nào? Chẳng tư duy tất cả pháp môn Tam-Ma-Địa như thế nào? Bác Nhã-Ba-La-Mật-Đa sâu xa chẳng tư duy quả dự lưu như thế nào? Chẳng tư duy quả nhất lai, bất hoàng. A-La-Hán như thế nào? Bác Nhã-Ba-La-Mật-Đa sâu xa chẳng tư duy quả vị độc giác như thế nào? Bác Nhã-Ba-La-Mật-Đa sâu xa chẳng tư duy tất cả hành đại Bồ-Tát như thế nào? Bác Nhã-Ba-La-Mật-Đa sâu xa chẳng tư duy quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật như thế nào?